Nguyễn Vạn Lý

Ba Chị Em Nhà Họ Tống


Chương 4
Cuộc Tình Duyên Của Tống Ái Linh Và Khổng Tường Hy


Tại Nhật Bản, Tống Giáo Nhân được giới thiệu với Khổng Tường Hy, một nhà tài phiệt Trung Hoa còn rất trẻ, mới 33 tuổi. Khổng Tường Hy người tỉnh Sơn Tây và là dòng dõi đức Khổng Tử. Gia đình Khổng Tường Hy cực kỳ giầu có. Dinh cơ nhà họ Khổng tại Sơn Tây có tới ba trăm phòng ốc, chiếm một diện tích trên tám mươi mẫu đất, và trong nhà có trên năm trăm nô bộc phục dịch. Những đồ đạc trong nhà cực kỳ sang trọng quý giá. Bàn ghế tủ giường được mua và chở từ Quảng Đông lên tận miền bắc. Tài sản nhà họ Khổng là do một hệ thống các tiệm cầm đồ, các dịch vụ buôn bán bất động sản và ngân hàng. Thân phụ Khổng Tường Hy hiện đang điều khiển việc làm ăn của gia đình tại Bắc Kinh. Khổng Tường Hy mồ côi mẹ rất sớm, và được thân phụ gửi theo học tại một trường truyền giáo, tại đây Khổng Tường Hy bí mật theo đạo Thiên Chúa.
Khi loạn Quyền Phỉ của Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ năm 1900, các nhà truyền giáo ngoại quốc tại Trung hoa, và ngay cả những người Trung hoa theo đạo Thiên Chúa, đã bị loạn quân và triều đình tàn sát rất dã man. Việc lợi dụng Nghĩa Hòa Đoàn để chống lại người tây phương là một sai lầm nghiêm trọng của Từ Hy Thái Hậu, khiến cho nhiều thành phố lớn của Trung hoa bị liên quân tây phương tàn phá để trả thù, và số thường dân vô tội bị chết oan cũng rất nhiều.
Trong những năm cuối thế kỷ 19, miền bắc Trung hoa hay bị hạn hán, mất mùa khiến các nông dân nghèo phải phiêu bạt kiếm miếng ăn, và rất công phẫn bất mãn triều đình. Lúc bấy giờ có hai người là Trương Đạt Thanh và Cao Phúc Điền đứng ra chiêu mộ thanh thiếu niên từ 15 tuổi trở lên để dạy quyền thuật. Hai người này còn đưa ra những nghi lễ cúng bái cho thêm phần kỳ bí, và ban phát những bùa chú có thể chống được gươm dáo, và khiến đối phương phải hoảng loạn tinh thần khi giao chiến. Hai người tổ chức môn đệ như tuần đinh trong làng, và đo đó được gọi là Nghĩa Hòa Đoàn, và môn võ của họ được gọi là Nghĩa Hòa Quyền. Về mặt tôn giáo, Nghĩa Hòa Đoàn rất giống với Bạch Liên Giáo.
Mục tiêu của Nghĩa Hòa Đoàn là tấn công các cơ sở truyền giáo của người tây phương, vì họ cho đó là nguyên nhân của mọi tai họa mà người dân Trung Hoa đang phải chịu đựng. Trong năm 1899, các nhà thờ Thiên Chúa giáo tại vùng Sơn Đông bị Nghĩa Hòa Đoàn tấn công phá hủy, giáo sĩ bị giết hoặc phải bỏ trốn về những thành phố an toàn. Bị các quốc gia tây phương phản đối và hăm dọa, triều đình nhà Thanh phải sai Viên Thế Khải ra trấn thủ Sơn Đông để diệt Nghĩa Hòa Đoàn. Nhưng một số quan nhà Thanh thấy Nghĩa Hòa Đoàn có thể dùng được để áp lực lại tây phương, nên liên kết với Nghĩa Hòa Đoàn. Do vậy, Nghĩa Hòa Đoàn đưa ra khẩu hiệu "Phù Thanh Diệt Dương". Vì lẽ này, các bang hội "Phản Thanh Phục Minh" chống lại Nghĩa Hòa Đoàn, và đã có những sự xung đột giữa Nghĩa Hòa Đoàn và các bang hội khác.
Năm 1900, Từ Hy Thái Hậu tin tưởng pháp thuật của Nghĩa Hòa Đoàn có thể chống lại được sức mạnh của tây phương, nên cho Nghĩa Hòa Đoàn vào Bắc Kinh. Khu vực của người tây phương tại Bắc Kinh bị quân Nghĩa Hòa Đoàn bao vây, và gây nhiều thiệt hại cho người tây phương. Nhiều giáo sĩ tây phương và người Trung hoa theo đạo Thiên Chúa bị tàn sát. Khi liên quân các nước tây phương tiến vào tấn công, quân của Nghĩa Hòa Đoàn tay không xông vào quân địch, bất kể súng đạn, vì họ tin rằng bùa chú của họ sẽ thắng. Nhưng Nghĩa Hòa Quyền và bùa chú của họ không chống lại được súng đạn của tây phương. Do đó, Nghĩa Hòa Đoàn bị đánh tan tành, thây chất thành đống, và Từ Hy Thái Hậu cùng vua Quang Tự phải bỏ kinh thành chạy trốn về Tây An, để mặc Lý Hồng Chương ở lại thương thuyết cầu hòa.
Khi Nghĩa Hòa Đoàn tàn sát giáo sĩ tây phương và người Trung hoa theo đạo Thiên Chúa thì Khổng Tường Hy may mắn thoát được cuộc tàn sát là nhờ về thăm nhà. Khổng Tường Hy thú thật với thân phụ đã theo đạo Thiên Chúa, và được thân phụ và người chú dấu thật kỹ trong nhà. Mãi tới khi loạn Quyền Phỉ bị dẹp rồi Khổng Tường Hy mới được tự do ra ngoài.
Ngay chính tại Sơn Tây, sinh quán của Khổng Tường Hy, một cuộc hành quyết các giáo sĩ ngoại quốc đã xảy ra. Cuộc hành quyết bắt đầu với các mục sư giòng Baptist. Mục sự Farthing bị lính dẫn lên trước. Bà vợ nắm chặt lấy tay mục sư, nhưng Farthing nhẹ nhàng đẩy tay vợ ra, đi thẳng tới trước người đao phủ và quỳ xuống. Một nhát dao vung lên, và đầu mục sư Farthing rụng xuống. Kế đó là các vị mục sư khác, tất cả đều bị chặt đầu.
Viên tổng đốc thấy cuộc hành quyết quá chậm chạp mà số nạn nhân thì còn nhiều, nên ra lệnh cho các binh sĩ khác dùng kiếm tiếp tay với các đao phủ, để giải quyết cho xong số nạn nhân còn đông đảo. Bà mục sư Farthing hai tay nắm chặt hai đứa con, nhưng binh sĩ giằng hai đứa bé ra, và đao phủ vung đao. Chỉ một nhát, đầu bà Farthing đã văng đi. Sau người lớn, các đao phủ tiếp tục hạ sát đến trẻ con. Nghệ thuật chém đầu của họ thật điêu luyện, vì đã có nhiều kinh nghiệm. Chỉ một nhát dao vung lên là xong đời một nạn nhân. Tuy nhiên cũng có vài đao phủ hơi vụng về, chưa quen với công việc chặt đầu người, nên đôi khi phải chém tới vài nhát mới làm xong nhiệm vụ, khiến nạn nhân phải vô cùng đau đớn.
Bà mục sư Lovitt đeo kính, nắm chặt tay con và nói với viên tổng đốc, "Chúng tôi tới Trung Hoa để đem tin lành cho các ông về Chúa Cứu Thế. Chúng tôi không làm điều gì hại, mà chỉ làm điều tốt. Tại sao các ông đối xử với chúng tôi như vậy?" Một tên lính bước tới lột kính của bà Lovitt ra, và hắn phải chém hai nhát mới chặt đứt được cổ bà Lovitt. Lúc chết rồi, tay bà Lovitt vẫn nắm chặt tay đứa con bà.
Khi các mục sư Tin Lành tử đạo xong thì đến lượt các linh mục công giáo người Pháp. Vị giám mục được dẫn ra trước. Vị giám mục đã già quá rồi, râu tóc bạc phợ Ông hỏi viên tổng đốc tại sao ông ta hành động tàn ác như thế. Viên tổng đốc trả lời vị giám mục già bằng một nhát kiếm tréo ngang mặt. Máu phun ra nhuộm đỏ bộ râu bạc của vị giám mục già, và ông gục xuống chết ngaỵ Sau đó là các linh mục và các vị nữ tu, tất cả đều chịu chung một hình phạt chặt đầu.
Ngày hôm đó tất cả 45 giáo sĩ tây phương và gia đình bị hành quyết, cùng với một số đông người Trung Hoa theo đạo Thiên Chúa. Xác của các nạn nhân để mặc nằm tại bãi hành quyết suốt đêm hôm đó, vì mãi đến chiều tối cuộc hành quyết mới chấm dứt. Trong đêm hôm đó, tất cả các xác đều bị lột hết quần áo và những gì có giá trị đeo trên mình. Ngày hôm sau, tất cả xác đều được chôn tập thể, trừ một vài cái đầu được đem đóng đinh ngay vào cổng thành, để làm gương cho công chúng.
Quan quân nhà Thanh cũng như loạn quân Quyền Phỉ không khỏi kinh ngạc cảm phục và e sợ trước sự can đảm của gia đình các nhà truyền giáo tây phương. Trừ một vài sự run rẩy ở phía các bà, và các bàn tay trẻ con nắm chặt váy mẹ ra, không một ai khóc lóc, kêu than hoặc van xin tha chết. Tất cả các nạn nhân bình thản chấp nhận cái chết thảm khốc dưới đao kiếm của quan quân nhà Thanh.
Sự hành quyết dã man các giáo sĩ truyền giáo và gia đình họ đã gây phẫn nộ tại tây phương. Sáu quốc gia phái quân đội đến trả thù, một cuộc trả thù vô cùng đắt giá cho người Trung hoa. Nếu chờ quân đội từ chính quốc tới thì lâu quá, người Anh phải tung vào cuộc trả thù ba ngàn lính Ấn Độ, trong khi người Pháp đem một số lính thuộc địa người Việt nam sang tham chiến. Huân tước Alfred von Waldersee, chỉ huy quân đội Đức, ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền:
"Khi các ngươi gặp quân Trung Hoa, các ngươi phải đánh bại chúng. Không được tha một tên nào, không được bắt chúng làm tù binh, mà phải giết hết. Tất cả những kẻ nào rơi vào tay các ngươi, các ngươi mặc sức chém giết. Cũng như người Mông Cổ cách đây gần một ngàn năm dưới quyền của Hốt Tất Liệt đã tạo được danh tiếng khủng khiếp còn lưu truyền đến ngày nay, thì bây giờ các ngươi có nhiệm vụ làm cho Đức quốc cũng được kinh sợ như vậy tại Trung Hoa, và từ nay người Trung Hoa sẽ không dám nhìn thẳng vào mặt người Đức."
Sau đó là một cuộc tàn sát trả thù vô cùng khủng khiếp của liên quân tây phương. Các thành phố và cung điện bị tàn phá thành những đống gạch vụn vĩ đại. Quân Nga chặt đầu tất cả đàn ông đàn bà và trẻ con trong suốt cả một vùng rộng lớn, rồi liệng xác nạn nhân xuống dòng sông Hắc Long Giang. Trong lúc đó thì Khổng Tường Hy có mặt tại Bắc Kinh. Khi được tin tỉnh Sơn Tây sẽ bị liên quân tây phương chiếu cố đặc biệt, vì chính tại Sơn Tây số giáo sĩ bị chặt đầu nhiều hơn hết. Khổng Tường Hy liền đứng ra thương thuyết, và dùng rất nhiều vàng bạc đút lót cho tây phương, gọi là tiền bồi thường. Gia đình nhà họ Khổng còn nhường lại rất nhiều quyền lợi kinh tế cho tây phương tại Sơn Tây, và nhờ đó cuộc trả thù của tây phương tại Sơn Tây đã tránh được.
Triều đình nhà Thanh rất cảm kích công lao của Khổng Tường Hy, và cấp thông hành đặc biệt cho Khổng Tường Hy được sang du học tại Hoa Kỳ. Khổng Tường Hy học tại đại học Yale, và đậu bằng tiến sĩ về môn kinh tế tài chánh. Khi trở về Trung Hoa, Khổng Tường Hy làm cố vấn cho sứ quân Diêm Tích Sơn một thời gian. Về sau Khổng Tường Hy mở trường giáo dục quần chúng, quảng bá lý tưởng dân chủ. Khi cuộc cách mạng xảy ra tại những tỉnh khác thì dân chúng Sơn Tây yêu cầu Khổng Tường Hy đứng ra chỉ huy quân đội tình nguyện của Sơn Tây, bao gồm những cảnh sát và vệ sĩ của các nhà giàu. Dân chúng muốn Khổng Tường Hy làm tổng đốc Sơn Tây, nhưng họ Khổng từ chối, và chỉ quan tâm tới vấn đề giáo dục.
Theo Khổng Tường Hy thì việc giáo dục rất quan trọng cho công cuộc cách mạng, cải tiến đất nước. Họ Khổng tuyên bố, "Chúng ta không thể hoàn thành cuộc cách mạng một sớm một chiều được. Người ta có thể tiến hành thành công một cuộc đảo chánh, thay đổi thể chế chính trị trong một đêm. Nhưng sau đó làm sao chúng ta có người để điều hành chính phủ? Chúng ta cần phải học tập cách cai trị đất nước, và giáo dục là bước đầu và quan trọng nhất trong một cuộc cách mạng."
Năm 1910, Khổng Tường Hy kết duyên với một thiếu nữ mồ côi nhưng rất đẹp, và được học tại một trường truyền giáo. Cả hai người sống rất hạnh phúc bên nhau được mấy năm tại Sơn Tây. Đến năm 1913, năm mà Viên Thế Khải trở thành một nhà độc tài tại Bắc Kinh, thì vợ Khổng Tường Hy mắc bệnh chết. Khổng Tường Hy rất đau lòng và nản chí trước cái chết của người vợ yêu quý, nên bỏ nước sang Nhật Bản một năm để tìm quên. Chính tại đây Khổng Tường Hy gặp được Tống Giáo Nhân và Tống Ái Linh.
Trong thời gian còn du học tại Hoa Kỳ, Khổng Tường Hy và Tống Ái Linh đã gặp nhau một lần trong một buổi tiệc liên hoan năm 1906. Bây giờ gặp lại nhau, Khổng Tường Hy bỗng say mê Ái Linh. Đối với Tống Ái Linh thì Khổng Tường Hy chính là một người chồng lý tưởng, một người không đẹp trai hấp dẫn, mặt mũi tròn như một trái bí, nhưng lại có rất nhiều tiền. Đối với Ái Linh thì chỉ có tiền là đẹp, càng nhiều tiền thì càng đẹp.
Khi Khổng Tường Hy ngỏ lời cầu hôn lấy Tống Ái Linh, thì ngay tối hôm ấy, Tống Giáo Nhân dùng hai đồng tiền gõ vào nhau để xem điềm tốt hay điềm xấu. Hai đồng tiền gõ vào nhau, vang lên những âm thanh rất trong trẻo ngọt ngào. Đó là những âm thanh của lợi lộc và phát tài. Tống Giáo Nhân vui vẻ chấp nhận lời cầu hôn của "cây tiền" Khổng Tường Hỵ Hôn lễ của Tống Ái Linh và Khổng Tường Hy được cử hành tại Nhật Bản vào mùa xuân năm đó.
Mối Tình Tống Khánh Linh Và Tôn Dật Tiên
Trong lúc còn du học tại Hoa Kỳ, Tống Khánh Linh vẫn theo dõi hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nàng vô cùng sung sướng khi Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống năm 1912. Trong dịp đó, Tống Khánh Linh viết một bài báo chào mừng ngày trọng đại của Trung Hoa, và coi Tôn Dật Tiên là một vị anh hùng và cứu tinh cho dân tộc Trung Hoa. Năm 1913 Tống Khánh Linh hồi hương và gặp người anh hùng của nàng. Nếu Tôn Dật Tiên thành công trong chức tổng thống thì có lẽ rồi Khánh Linh cũng quên dần Tôn Dật Tiên, và sẽ đi theo con đường riêng của nàng. Nhưng Tôn Dật Tiên là một mẫu anh hùng cách mạng thất bại. Hết thất bại này đến thất bại khác theo đuổi ông trong suốt cuộc đời hy sinh tận tuy tranh đấu cho đất nước của ông. Chính những thất bại của Tôn Dật Tiên đã khiến hai cuộc đời của ông và Tống Khánh Linh gặp nhau. Phải chăng đó là định mệnh?
Tống Khánh Linh trở về nước để thấy Tôn Dật Tiên đang thất thế, phải trốn tránh và đang ở trong một tình trạng cô đơn gần như tuyệt vọng. Viên Thế Khải đã trở thành người của thời cuộc, và đang ra lệnh tầm nã Tôn Dật Tiên. Chính cuộc đời lưu vong tại Nhật Bản của hai nhà họ Tôn và họ Tống đã tạo môi trường cho Khánh Linh và Tôn Dật Tiên lại gần nhau.
Tương lai chính trị của Tôn Dật Tiên trong thời gian lưu vong tại Nhật Bản không được sáng sủa lắm. Trong một cố gắng đạt được sự ủng hộ của Nhật Bản để có thể đương đầu với Viên Thế Khải, Tôn Dật Tiên đã hứa hẹn dành cho người Nhật rất nhiều đặc quyền đặc lợi tại Trung Hoa nếu người Nhật giúp ông đánh bại được Viên Thế Khải. Tôn Dật Tiên không biết được rằng người Nhật cũng đang đi đêm với cả Viên Thế Khải. Tôn Dật Tiên vẫn nhất quyết đạt được sự trợ giúp của người Nhật nên ông nhượng bộ thêm nữa, hứa cho người Nhật được hưởng những đặc quyền như người Anh tại Trung Hoa. Các đề nghị của Tôn Dật Tiên làm các giới chức Nhật rất thèm muốn, nhưng đúng lúc đó đệ nhất thế chiến bùng nổ tại Âu châu. Người Nhật muốn chờ đợi, vì họ biết quyền lợi của người Anh tại Á Châu sẽ thay đổi rất nhiều, tùy theo kết quả của cuộc đại chiến. Do đó mọi nỗ lực của Tôn Dật Tiên đều không đưa đến một kết quả nào.
Những thất bại liên tiếp làm Tôn Dật Tiên ngã lòng, và ảnh hưởng đến tinh thần ông. Lúc đó là giai đoạn đen tối nhất cho những người Trung Hoa đang hoài bão một tương lai tươi sáng cho xứ sở họ. Cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 là một hứa hẹn bình minh đầu tiên sau hàng ngàn năm tăm tối. Nhưng cuộc cách mạng này đã bị phản bội, và cuối cùng đưa Trung Hoa vào sự đen tối của chế độ độc tài Viên Thế Khải. Thật là một nghịch cảnh lớn lao đối với các nhà cách mạng Trung Hoa, vì đã có lúc họ tưởng như đã đạt được mục đích. Nhiều người Trung Hoa ái quốc đã phải tự tử vì không chịu đựng nổi sự thất vọng sâu xa này.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, Tôn Dật Tiên rất cần một người, một điểm tựa để bấu víu vào cho khỏi ngã quỵ, ít nhất là về mặt tinh thần. Tình bạn thân mật giữa Tôn Dật Tiên và Tống Giáo Nhân trước kia không còn nữa, sau vụ Ông đòi lấy Ái Linh làm vợ. Sau khi Ái Linh kết hôn với Khổng Tường Hy, và tìm thấy hạnh phúc của nàng thì nàng từ giã công việc làm thư ký buồn tẻ và không công cho Tôn Dật Tiên. Chưa bao giờ Tôn Dật Tiên cảm thấy cô đơn và chán đời như thế, vừa mất Ái Linh, vừa không nhìn thấy tia hy vọng của công cuộc quang phục nước Trung Hoa. Đúng giây phút tuyệt vọng ấy, Tống Khánh Linh đến với Tôn dật Tiên, như một nàng tiên đưa một ông già đang mang một tâm hồn cằn cỗi mệt mỏi, vào một vùng của hồi sinh và hạnh phúc. Tống Khánh Linh đang ở trong tình trạng rảnh rỗi nên tình nguyện thay thế chị, đến làm việc giúp đỡ Tôn Dật Tiên mỗi ngày.
Tống Ái Linh và Tống Khánh Linh là hai thái cực, khác nhau rất nhiều phương diện. Ái Linh buồn tẻ bao nhiêu thì Khánh Linh xinh đẹp bấy nhiêu. Ái Linh thực tế, tính toán và yêu tiền bạc bao nhiêu thì Khánh Linh hồn nhiên, lý tưởng, thiên về tinh thần và những giá trị cao quý bấy nhiêu. Khi đến với Tôn Dật Tiên, Khánh Linh chỉ là một bông hoa mới chớm nở, một thiếu nữ xinh đẹp, trí thức, say mê lý tưởng và hết lòng yêu mến nước Trung Hoa.
Đối với Khánh Linh thì làm việc với Tôn Dật Tiên là một hạnh phúc. Niềm hạnh phúc sâu xa của nàng là do nàng cảm nhận rằng nàng đang thỏa mãn niềm khao khát của nàng ngay từ khi nàng còn nhỏ. Cuộc đời mới của nàng là phục vụ cho cách mạng. Nàng nghĩ những gì nàng làm cho Tôn Dật Tiên sẽ đem lại tự do và hạnh phúc cho hàng triệu công nhân và nông dân Trung Hoa. Những gì nàng ghi chép cho Tôn Dật Tiên đã giúp nàng hiểu rõ ý nghĩa đích thực của cách mạng. Nhiều lúc Khánh Linh cảm động vì những gì nàng viết đến nỗi phải ngừng lại để lấy lại bình tĩnh mới có thể viết tiếp được. Nàng giống như một dòng suối nhỏ uốn khúc quanh co để tìm lối ra đại dương, và bây giờ bất chợt cảm thấy mình trở thành một phần của một dòng thác lũ, cuồn cuồn xô tới một vùng nước mênh mông. Đây chính là điều nàng muốn thực hiện, cái nhu cầu của chính bản thân nàng, một nhu cầu mà nàng không kiềm chế nổi.
Khi làm việc với Tôn Dật Tiên, Khánh Linh học hỏi được căn bản của cách mạng, từ khởi đầu cho tới hiện tại, những khó khăn cũng như những hứa hẹn của tương lai. Nàng nhận thấy cách mạng là một cái gì lớn lao cao cả, và nhận thức Tôn Dật Tiên đã quá lý tưởng không nhìn thấy được những thực tế khó khăn. Nàng hiểu Tôn Dật Tiên vì chính nàng cũng là một con người lý tưởng, và hiểu được những ước vọng tha thiết thầm kín của Tôn Dật Tiên. Nhưng vì còn trẻ, nên Khánh Linh không coi những khó khăn là quá to lớn, trái lại những khó khăn ấy còn như gây hứng khởi cho nàng. Sự công bình và chính đáng của các nguyên tắc cách mạng khích lệ nàng, và nàng tin tưởng rằng công cuộc cách mạng sẽ thắng và Trung Hoa sẽ trở thành một quốc gia trong đó người dân được làm chủ vận mạng của mình.
Khánh Linh chỉ là một cô gái trẻ bên cạnh một Tôn Dật Tiên đã già, tuy vậy những bản năng che chở bảo vệ của một người mẹ trong người nàng tuôn tràn ra để trợ giúp Tôn Dật Tiên. Đối với người khác, Khánh Linh có vẻ xa cách, dè dặt, tránh né, nhưng nàng hết sức cởi mở, bộc lộ hết tâm tư với Tôn Dất Tiên, vì nàng nghĩ ông hiểu nàng. Khánh Linh ít khi nào tâm sự với bất cứ ai trong gia đình nàng, trừ một đôi lần với thân phụ và Mỹ Linh. Từ trước tới nay, Khánh Linh dường như sống một cuộc đời cô đơn thầm kín. Mãi cho tới nay, khi gặp Tôn Dật Tiên, cuộc đời mới thực sự mở ra cho nàng, và rất sống động.
Khánh Linh thường làm việc rất khuya, đến quá nửa đêm, cùng với Tôn Dật Tiên. Nàng bàn luận với Tôn Dật Tiên những gì cần phải viết, và viết cách nào cho có hiệu quả. Ban đêm trên giường ngủ, nàng thường nằm nghĩ lại những đoạn văn nàng viết, về những gì nàng và Tôn Dật Tiên bàn thảo với nhau. Những lúc ấy, một ý nghĩ mới và mạnh mẽ bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nàng, nhưng nàng vẫn cố gắng kiềm chế để chờ biết rõ tâm hồn nàng hơn nữa.
Nhiều khi Khánh Linh thấy Tôn Dật Tiên lo lắng, tinh thần và thể xác mệt mỏi. Ông cần phải có một sức mạnh mới, vĩnh viễn bên cạnh trợ giúp ông. Khánh Linh tự nhủ, "Ta có thể giúp Trung Hoa và ta có thể giúp bác sĩ Tôn Dật Tiên. Bác sĩ cần tạ" Nàng chưa nói điều đó ra với ai, nhưng đó là một niềm tin không thể lay chuyển nổi của nàng. Tinh thần chính trực của nàng bảo cho nàng rằng nếu nàng dâng hiến đời nàng cho công cuộc cách mạng thì đây là hành động cuối cùng, không thể lùi được. Thân phụ nàng tin rằng Trung Hoa cần phải thay đổi, nhưng không phải là sự thay đổi mà nàng biết Tôn Dật Tiên đang toan tính. Quyết định của nàng có phản lại cái gia đình yêu quý của nàng không, nàng tự hỏi? Hằng đêm nàng nằm yên lặng, không ngủ, cố đi sâu vào nội tâm của mình.
Nhưng cái tinh thần tận tụy và khả năng hy sinh của Khánh Linh đã giúp nàng quyết định khi cái ý nghĩ đầu tiên đến với nàng. Tuy nhiều đêm nàng nằm suy nghĩ, tự hỏi lòng mình, và cố gắng chắc rằng sau này sẽ không có sự thay đổi nữa, nhưng lòng nàng đã thực sự quyết định rồi. Khánh Linh không còn là một người con gái như mọi người trong gia đình vẫn nghĩ về nàng: dè dặt ít nói, nhát sợ, hay mắc cở và khiêm tốn. Nàng biết rằng từ trước nàng vẫn che dấu nhân cách của nàng. Nhưng bây giờ nàng sống với tâm hồn thực của nàng, một con người đầy nghị lực, sẵn sàng và bạo dạn dâng hiến đời nàng cho cách mạng.
Hàng ngày Tôn Dật Tiên và Khánh Linh làm việc bên nhau, gần gũi nhau và càng lúc càng ý hợp tâm đầu, vì hai người có cá tính giống nhau. Khánh Linh thấy ở Tôn Dật Tiên một lý tưởng cao đẹp quang phục nước Trung Hoa, như nàng vẫn thường ấp ủ. Nàng nhìn thấy ở Tôn Dật Tiên không phải là một ông già ở tuổi ngũ tuần, mệt mỏi sau quá nhiều thất bại. Trái lại nàng chỉ thấy ở ông một sự vô cùng đẹp đẽ, những hào quang của một kiểu mẫu anh hùng mà nàng hằng mơ tưởng, một người đàn ông đẹp trọn vẹn với đầy đủ sức quyến rũ hùng tráng của một bậc trượng phụ Còn Tôn Dật Tiên càng ngày càng say đắm cái nhan sắc tuyệt trần của Khánh Linh, sự thông minh duyên dáng đáng mê của nàng, trong khi đó bà vợ già quê mùa mà cha mẹ Ông cưới cho ông trên ba mươi năm trước, bây giờ mỗi ngày một thấy vô duyên hơn.
Trước kia Tôn Dật Tiên muốn lấy Ái Linh làm vợ chỉ vì lòng ưa thích sự mới lạ trẻ trung bên ngoài của một cô gái tân tiến. Nếu ông và Ái Linh thành vợ chồng thì chắc chắn hai người đều không có hạnh phúc, vì bản chất khác hẳn nhau. Nhưng bây giờ ông say mê Khánh Linh không những Khánh Linh đẹp và trẻ hơn Ái Linh, mà ông còn cảm phục yêu mến cái tâm hồn cao thượng của nàng nữa. Thế là việc phải đến đã đến. Hai con tim hòa hợp nhau, yêu nhau say đắm. Đây là một sự kết hợp giữa mùa đông và mùa xuân, chàng đã 50 tuổi, có vợ và ba con đã trưởng thành, và nàng mới chỉ 20 tuổi, một bông hoa hãy còn phong nhụy. Tuy nhiên hai người vẫn cố gắng giữ kín mối tình lãng mạn của họ đến tối đa, không một ai biết được.
Một điều bất ngờ xảy đến là Tống Giáo Nhân tỏ ý muốn trở về Thượng Hải. Họ Tống đã mua một căn nhà lớn trong khu tô giới Pháp tại Thượng Hải. Dĩ nhiên Khánh Linh kịch liệt phản đối quyết định trở về Thượng Hải của thân phụ. Nàng đang ngụp lặn trong hạnh phúc đầu tiên và không muốn rời xa Tôn Dật Tiên. Gia đình họ Tống phải kèm giữ Khánh Linh và đưa nàng về Thượng Hải cấp tốc như một trường hợp bắt cóc. Hai vợ chồng Ái Linh và Khổng Tường Hy cũng về theo. Có thể Tống Giáo Nhân tinh ý nghi ngờ có sự lén lút giữa Tôn Dật Tiên và Khánh Linh, nên quyết định trở về Thượng Hải để kịp thời lôi con gái ra khỏi cơn mệ Tống Giáo Nhân cũng không còn tin tưởng ở ông bạn cách mạng già của mình nữa. Kể từ sau vụ từ chối không gả Ái Linh cho Tôn Dật Tiên, Tống Giáo Nhân không còn quý trọng thân mật với người bạn chí thân nữa. Tống Giáo Nhân cũng muốn tránh một trường hợp tương tự, phải từ chối lời cầu hôn của Tôn Dật Tiên một lần nữa.