Nguyên Hùng
Bảy viễn thủ lĩnh Bình xuyên


Phần 4


Thiếu Tướng Ba Dương

Nghe theo lời hiệu triệu của Ba Dương, các chi đội Bình Xuyên thi đua giết giặc lập công.
Lính Chà chóp và lính Nhật đi lẻ tẻ trên đường vắng, thế nào cũng bị anh em nhảy ra giật súng.
Bảy Rô và Ba Bay trong nhóm bảo vệ anh Ba Dương ở cầu Rạch Ðỉa đã nhử bọn Chà chóp đuổi theo qua cầu Rạch Giới để bắn vào tổ ong vò vẽ ở trụ giữa cầu khiến ong bu đốt bọn Chà chóp một trận nhớ đời. Có tên quýnh quá quăng súng nhảy xuống sông, vẫn không thoát khỏi đội quân cảm tử có cánh.
Trong những trận kéo tấn công bót Thương khẩu Khánh Hội bắt sống trưởng đồn Paul Jean, rồi thừa thắng xông lên đánh bót số 6, giải thoát 60 thanh niên bị bắt giam.
Bộ đội Bảy Viễn đánh Sở Cứu hỏa trên đại lộ Galliéni (Trần Hưng Ðạo), leo lên tháp canh cao 100m treo cờ đỏ sao vàng. Bốn chiến sĩ hy sinh, nhưng ta đã đạt mục đích: treo cờ Việt Minh to bằng tấm đệm lên cột cờ tháp canh cao ngất.

Chiến hạm Triomphant, Suffren và soái hạm Richelieu đổ quân Pháp xuống Sài Gòn, tạo thế mạnh cho quân đội Pháp. Chúng chiếm hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa dễ dàng nhanh chóng.
Tiểu đoàn Âu-Phi và đại đội Commando Ponchardier cộng thêm lính Thủy quân với hỏa lực hùng hậu tiến quân như vũ bão. Cũng trong thời gian này, Sư đoàn 20 Hoàng gia Anh tới Sài Gòn.
Bọn Pháp vui mừng như hùm mọc thêm cánh. Cuối tháng 10.1945, bơn tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tân An, Mỹ Tho thất thủ.

Trước tình thế đó, tướng Nguyễn Bình quyết định đánh lớn để lấy lại uy thế kháng chiến.
Kế hoạch đề ra là đánh vô thị xã Biên Hòa vào đầu năm dương lịch, lúc Tây đang nghỉ ngơi trong niềm vui chiến thắng.
Tham gia trận đánh là các chi đội miền Ðông, gồm Chi đội I của Huỳnh Kim Trương (Thủ Dầu Một), Chi đội 10 của Huỳnh Văn Nghệ (Biên Hòa), bộ đội Tô Ký (liên quân giải phóng Hóc Môn -Bà Ðiểm -Ðức Hòa), bộ đội Ðào Sơn Tây (Dĩ An).
Trận đánh diễn tiến như ta bố trí, thắng lợi hoàn toàn. Ðặc biệt có một tiểu đội nữ chiến sĩ tình nguyện từ Quảng Ngãi vào chuyên sử dụng mã tấu. Biết bao đầu Việt gian rơi rụng dưới những thanh mã tấu của bộ đội.

Trận chiến thắng làm nô nức nhân dân Biên Hòa. Sau đó rất nhiều nhân sĩ, trí thức bỏ thành vào khu kháng chiến.
Trước Tết 1946, Nguyễn Bình nhận được tin khẩn cấp của anh Bùi Sĩ Hùng, sinh viên Trường Y Hà Nội về Nam chiến đấu tại mặt trận Bến Tre, cho biết Mặt trận An Hóa -Giao Hòa đang bị địch vây cần được viện binh tới giải vây.
Lập tức Nguyễn Bình từ Tân Uyên xuống Long Thành, ra lệnh cho Ba Dương:
- Anh Ba đưa một cánh quân mạnh xuống Bến Tre giải vây mặt trận An Hóa - Giao Hòa. Cho anh em ăn Tết sớm rồi hành quân ngay trong ba ngày Tết .
Ăn Tết xong, đoàn quân lên đường, vượt sông Soài Rạp, vô đất Gò Công đi tắt tới Bến Tre, gặp giặc thì đánh, khí thế xung thiên. Tới Châu Bình thì đụng giặc càn lớn.
Một anh thư ký văn phòng chìa trước mặt anh Ba Dương một xấp giấy thuế thân:
- Tây bao vây bốn phía. Mình chỉ có nước chém vè. Ðây, anh Ba lấy một tờ để giả dạng thường dân, rút ra khỏi vòng vây .
Ba Dương xé nát tờ giấy thuế thân, nghiêm nghị nói:
- Chỉ huy mà đụng giặc chạy trốn thì đâu phải là chỉ huy nữa ! Anh em nghe tôi: giấu súng chém vè. Xong sẽ tập hợp lại .
Mấy chiếc Spitfire lên bắn dọn đường cho bộ binh.
Anh Ba không xuống hầm mà chạy vòng quanh cây rơm , nhưng anh chậm chân bị trúng đạn té xõng soài dưới mương ruộng.
Mất chủ tướng, đoàn quân mất tinh thần, chỉ biết tìm đường trở về Rừng Sác.
Ngày anh Ba hy sinh là 20.2.1946 tức 19.1 Bính Tuất (theo một tài liệu khác thì anh Ba Dương hy sinh vào mùng 6 Tết Bính Tuất, tức ngày 7.2.46).
Tin Ba Dương tử trận khiến Bảy Viễn trở lại ý đồ muốn xung thủ lĩnh Bình Xuyên.



Ngài Khu Bộ Phó

Ba Dương bị Spitfire bắn chết tại sở chỉ huy ở ấp Bình Phương, xã Châu Bình ngày 17.2.46.
Chỉ huy phó Trần Văn Ðối (Sáu Ðối) đưa bộ đội Bình Xuyên (Liên chi 2-3) về Rừng Sác. Một tuần mở đường máu, đoàn quân về tới lãnh địa của mình.
Hay tin dữ, Năm Hà cùng các chỉ huy Bình Xuyên vội làm lễ truy điệu người anh cả . Trong lễ này, Năm Hà đọc giấy truy phong đồng chí Dương Văn Dương -- Thiếu tướng của Chính phủ - và đọc thư Hồ Chủ tịch chia buồn cùng gia quyến.

Hay tin Ba Dương tử trận, tham vọng từ lâu trong Bảy Viễn lại nổi lên.
Bảy Viễn tự thấy mình xứng đáng thay thế Ba Dương làm thủ lĩnh Liên khu Bình Xuyên (gồm 7 chi đội đánh số 2,3,4,7,9,21 và 25). Hầu hết chỉ huy các chi đội này đều là bạn thân của Bảy Viễn, như Mười Trí, Tư Hoạnh, Tư Ty; chỉ có Năm Hà là em cùng cha khác mẹ với Ba Dương và cha con ông Tám Mạnh Hai Vĩnh là không tán thành ý đồ của Bảy Viễn.

Ðúng như Bảy Viễn nhận định, anh em Bình Xuyên bầu Năm Hà lên thay Ba Dương làm thủ lĩnh Liên khu Bình Xuyên. Nhưng Bảy Viễn và hai tay thân cận là Tư Hoạnh và Tư Ty đều chê Năm Hà không đủ tầm vóc để chỉ huy.
Ðêm đó Bảy Viễn họp cấp bộ - từ trung đội trưởng trở lên - để thăm dò dư luận về việc Bảy Viễn ra tranh chức Tư lệnh Liên khu với Năm Hà. Dưới trướng Bảy Viễn có hai nhân vật ta từng gặp trước đây. Ðó là Ba Rùm, cháu Mười Trí ở Bình Thới, người đã tham gia "đi hát" trại mộc Bình Triệu và đã lãnh bản án đồng hạng 12 năm Côn Ðảo. Người thứ hai là Năm Bé, dân Hải Phòng từng lưu lạc vào Nam, xưng anh chị bến cảng Khánh Hội, bị đày Côn Ðảo và đã quá giang bè của Bảy Viễn về đất liền.
Bảy Viễn đặc biệt tin tưởng hai nhân vật này do đã quen biết từ trước kháng chiến và giao cho Năm Bé phụ trách nhân sự , Ba Rùm trông coi vũ khí.
Trong cuộc họp, đa số tán đồng ý kiến của Bảy Viễn là Năm Hà không xứng đáng là tư lệnh Bình Xuyên. Người đủ tư cách phất cao ngọn cờ Bình Xuyên phải là Bảy Viễn. Thế là Bảy Viễn viết thư gửi các chi đội trong Liên khu mời họp để bàn việc chọn người thay thế anh Ba Dương.

Trước cuộc họp quan trọng này, Bảy Viễn đã quyết định dời chỉ huy sở từ vườn Thơm (Tân Nhựt - Bình Chánh) xuống Rừng Sác - một vùng sông rạch chằng chịt nằm giữa hai con sông lớn là Lòng Tàu và Soài Rạp. Vị trí Rừng Sác cực kỳ quan trọng vì nó án ngử đường nước từ Vũng Tàu vô Sài Gòn cũng như từ miền Tây về Chợ Lớn. Vùng Rừng Sác cũng có nhiều bất lợi như thiếu nước ngọt (vì đây là rừng ngập mặn), thiếu đất cất nhà, dân phải che chòi trên sàn, lát cây tràm hay cây đước. Nhưng bù lại tôm cá dư ăn quanh năm.
Vì sao Bảy Viễn chọn Rừng Sác thay vì Vườn Thơm ? Sau khi Tây tấn công Sài Gòn và nống ra các tỉnh, bộ đội Bình Xuyên phân tán, mỗi chi đội tìm một vị trí thuận lợi nhất để đóng quân lâu dài. Liên chi 2-3 về Rừng Sác. Ba Dương chọn Phước An, quận Long Thành đóng quân. ông Tám Mạnh và rể là Hai Vĩnh cũng rời Chánh Hưng về đảo Long Sơn, cũng gọi là Bà Trao hay núi Nứa lập căn cứ. Ðảo Long Sơn nằm giữa Bà Rịa và Vũng Tàu, chiếm một vị trí chiến lược đường biển cũng như đường bộ.
Rừng Sác lại có căn cứ Lý Nhơn, cũng gọi là Xóm Tiều, là căn cứ của Bình Tây đại nguyên soái Trương Ðịnh, trăm năm trước đã từng đốt tàu Espérance trên sông Nhựt Tảo.
Cuộc di chuyển đại bản doanh cũng gian nan nguy hiểm vì trên lộ thì xe nhà binh chạy liên tục ngày đêm, còn dưới sông thì các đội giang thuyền cũng hoạt động ngăn chặn ghe thuyền đi lại trên sông.

Bảy Viễn còn đang lo âu thì vận may tới.
Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký Hiệp ước sơ bộ 6.3.46 với Pháp.
Ngày 5.3, quân đội Anh rút khỏi Việt Nam, ta đở được một địch thủ lợi hại.
Công việc mở hội nghị bầu chỉ huy Liên khu Bình Xuyên được xúc tiến. Chỉ có các chỉ huy trưởng và phó chi đội trong Liên khu được mời mà thôi. Biết ý đồ của Bảy Viễn, hai cha con Tám Mạnh - Hai Vĩnh vận động Mười Lực, Nam Chẳng, Năm Hà, Sáu Ðối không bầu Bảy Viễn.
Do Bảy Viễn không đủ đa số ủng hộ nên ý đồ làm thủ lĩnh đành phải gác lại.

Nhưng tới tháng 5.46 thì vận may tới với Bảy Viễn.
Khu trưởng Nguyễn Bình ký quyết định phong Bảy Viễn làm Khu bộ phó Chiến khu 7. Khu bộ phó thứ hai là Huỳnh Văn Nghệ (Tám Nghệ) - Chi đội trưởng Chi đội 10 hoạt động trong tỉnh Biên Hòa.
Ðó là vinh dự lớn cho một tay giang hồ theo kháng chiến ! Ðám binh tôm tướng cá dưới trướng ông Bảy quyết định làm lễ lớn đón mừng chức Khu bộ phó Chiến khu 7 của chủ soái .

Ðược phong Khu bộ phó, Bảy Viễn làm lễ ăn mừng .
Tin Chi đội trưởng Chi đội 9 Lê Văn Viễn được vinh thăng Khu bộ phó, đứng kế sau Khu trưởng Nguyễn Bình, trên đệ nhị Khu bộ phó Huỳnh Văn Nghệ - Chi đội trưởng Chi đội 10 là một bất ngờ đối với Bảy Viễn cũng như đám thuộc hạ.
Hai tên Tài, Sang cho đây là một thủ đoạn nhằm lôi cuốn Bảy Viễn đeo sát kháng chiến, nên nói xa nói gần: "ông Bảy có thấy việc đề bạt này có gì không bình thường không?"
- Sao không bình thường? - Bảy Viễn nạt Năm Tài.
- Không bình thường ở chỗ Chi đội 9 của mình chiến công đâu bằng Chi đội 10. Tám Nghệ đánh nhiều trận chấn động ở Tràng Táo, Bảo Chánh, Ðồng Xoài, Bàu Cá v.v... Vậy mà Nguyễn Bình chỉ phong Tám Nghệ đệ nhị Khu phó, đứng sau ông Bảy. Có phải đó là chuyện lạ không?
Bảy Viễn gật gù:
- Mày nói đúng. Mình không có nhiều chiến công bằng Tám Nghệ. Nhưng biết đâu Nguyễn Bình đưa mình đứng trước Tám Nghệ vì một lý do nào đó, chẳng hạn như mình là dân giang hồ khét tiếng trong giới lục lâm. Ông ta muốn đưa mình lên để làm ngọn cờ hô hào đám hảo hớn còn ở ngoài thành nên noi gương Bảy Viễn ra bưng kháng chiến?
Năm Tài ngẫm nghĩ:
- Cộng sản làm gì cũng có ý đồ . Họ chỉ nhắm cái lợi của họ mà thôi .
Bảy Viễn gật:
- Ðúng. Nhưng cái lợi của họ cũng là cái lợi của mình. Cờ đến tay tội gì không phất !
Năm Tài:
- Ðồng ý là ông Bảy phải phất, mà còn phải phất mạnh nữa kìa. Ta nên làm lễ đón nhận chức Khu bộ phó thật long trọng để phô trương uy thế. Nếu ông Bảy đồng ý, tôi sẽ chịu trách nhiệm làm trưởng ban tổ chức lễ này .
- Ðược ! Ðược ! Mình mời hết các chỉ huy trưởng miền Ðông tới dự cho xôm.
Năm Tài:
- Còn khách quý trên thành nữa chớ, ông Bảy. Tôi sẽ thảo thư mời hai ông Lâm Ngọc Ðường, Maurice Thiên, rồi mời luôn cả các vị lãnh đạo tôn giáo như Hộ pháp Phạm Công Tắc, giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ....
Bảy Viễn gật:
- Ðúng ! Nên mời khách quý trên thành. Như vậy phải làm lễ xôm lên cho ra vẻ xứng đáng với khách quý .
Tư Sang xen vô:
- Về phần xây cất nhà khách, xây dựng khán đài, tôi xin lãnh. Sẽ có máy phát điện sáng đêm, rồi sẽ có ban nhạc tân cổ đầy đủ .
Bảy Viễn thích thú:
- Hay! Tao khoái nhạc cổ. Làm sao rước nhạc sĩ trên thành xuống biểu diễn cho xôm trò. Nhất là vọng cổ. Về khuya lai rai sáu câu nghe mới mùi .
Tư Sang tức tốc tìm Hai Dậu, trưởng ban văn nghệ của Chi đội 9.
Hai Dậu dân Trà Vinh, học đàn kìm từ nhỏ. Hai Dậu đàn cho các gánh hát "đại ban" như Huỳnh Kỳ, Phước Cương cho tới kháng chiến bùng nổ, thất nghiệp một thời gian rồi lên Sài Gòn đàn cho các quán có ca nhạc. Ðến khi thảy không thể ở thành làm trò vui cho thiên hạ, Hai Dậu xách đàn vô khu tham gia kháng chiến và đầu quân Bảy Viễn. Cùng lúc nhạc sĩ Ngọc Thới là cháu vợ Bảy Viễn cũng ra bưng, gia nhập chi đội dượng rể. Hai anh, một tân, một cổ, nhập lại làm ban văn nghệ Chi đội 9 khá xôm trò.
Hai Dậu vâng lệnh Tư Sang về thành mời nhạc sĩ tên tuổi xuống giúp vui lễ tấn phong ông Bảy lên Khu bộ phó. Hai Dậu quen thân với danh ca Năm Cần Thơ và tìm tới nhà hàng cô danh ca này ký hợp đồng. Cũng cần nói thêm là Hai Dậu rất đào hoa, từng kết bạn tâm tình với các cô đào chánh các đại ban, trong số này có cô Năm Cần Thơ. Nghe Hai Dậu rủ ra khu chơi vài ngày, danh ca Năm Cần Thơ hưởng ứng ngay.
Cô nói:
- Anh đánh giặc rầm rầm, còn mình ở lại thành, đêm đêm ca hát phục vụ cho bọn trọc phú làm giàu trong chiến tranh, nghĩ mà nhục ! Ði, em đi vô khu với anh Hai một lần cho biết mặt ông Bảy Viễn .
Ðược Năm Cần Thơ, Hai Dậu xẹt qua vũ trường Tabarin, nay là Văn Cảnh, đường Phạm Ngũ Lão - Calmette, rủ luôn hai bạn nhạc sĩ Chín Minh và Lê Yên.
Chín Minh là nghệ sĩ nổi tiếng, sử dụng nhiều loại đàn như đàn gió, vĩ cầm, ghi-ta.
Còn Lê Yên chuyên thổi kèn trompette. Cả hai vui lòng ra khu một chuyến để "thay đổi không khí".
Vậy là Hai Dậu hoàn thành sứ mạng với Tư Sang.

Năm Tài thảo thư mời các yếu nhân trên thành xuống để phô trương ngài Khu bộ phó.
Tiếng "ngài" đặt trước chức Khu bộ phó nghe lạ tai, Bảy Viễn mới đầu thấy kỳ kỳ, nhưng Tư Sang nói:
- Mình giao du với các yếu nhân trên thành phố thì phải dùng ngôn ngữ của người ta. Không thể ăn nói theo dân quê được. Giới trí thức họ sống có ngăn nắp lắm, chức nào cũng có danh xưng thích hợp, như anh lính, chú bếp, chú cai nhưng phải là thầy đội, ông quản. Từ quận trưởng trở lên phải gọi là ngài. Khu bộ phó tương đương với đại tá gọi là ngài là quá đúng. Xin ông Bảy chớ ngại ! .
Năm Tài miệng lưỡi dẻo quẹo, cứ ton hót mãi, Bảy Viễn cũng không còn khó chịu khi nghe Tài gọi mình là "ngài Khu bộ phó".
Nhưng tất cả cán bộ và chiến sĩ kháng chiến đều thấy lạ tai và cũng từ đó anh em bắt đầu "kính nhi viễn chí" ông Khu bộ phó gốc giang hồ.



Lễ tấn phong

Chốn rừng đước ngập mặn heo hút nay bỗng trở thành nơi đô hội nhờ lễ tấn phong ngài Khu bộ phó Lê Văn Viễn.
Máy nổ đặt ở nơi xa để không làm ồn quan khách. Ðèn điện sáng rọi xuống lòng sông. Nhà khách được dựng lên bằng cột tràm, lá dừa nước, không ngăn vách như kiểu nhà công chợ đồng quê, treo hoa kết dây dưới ánh đèn trông tuyệt đẹp.
Dàn nhạc trỗi lên, toàn nhạc Tây, nhạc nhảy vì nhạc trưởng Chín Minh, Lê Yên là hai trụ cột của dàn nhạc vũ trường Tabarin.
Dân thành thị thì khoái rồi, vì quen tai. Dân quê cũng thích vì lạ, tay chán ngứa ngáy "cà giật, cà giật" như khỉ mắc phong.
Bia Con Cọp, nước cam, xá xị rót đầy bàn, ai thích gì dùng nấy.

Long trọng nhất là khi loa giới thiệu khách quý từ các nơi tới như các chi đội trưởng Năm Hà, Mười Lực, Năm Chẳng, Hai Lung, Mười Trí, Tám Mạnh, Hai Vĩnh, Sáu Ðối, Tư Huỳnh, Tư Hoạnh, Tư Ty.
Kế đến, khách quý trên thành xuống: Lâm Ngọc Ðường, Maurice Thiên, Hộ pháp Phạm Công Tắc, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ với đệ tử ruột là Trần Văn Soái, hỗn danh Năm Lửa.

Năm Tài mặc đồ lớn trân trọng giới thiệu quan khách. Ðúng vào lúc đó, một loạt đại liên nổ giòn, các vị khách nữ hốt hoảng nhảy tót vô mình các đấng trượng phu nhờ che chở.
Nhưng Năm Tài cho biết đó là tiếng súng chào đệ nhị Khu bộ phó Huỳnh Văn Nghệ.
Tất cả mọi người dều quay lại nhìn vị thượng khách mới tới.
Bảy Viễn đứng lên, chỉ ghế bành kế bên mình mời Tám Nghệ, đứng thẳng người, nhìn qua cử tọa, khẽ cúi đầu chào.
Anh Tám tới với tư cách là khách mời mà cũng là tai mắt của Bộ chỉ huy Khu.
Từ lâu, Khu đã được báo cáo về hành tung của Bảy Viễn, như giao du thân mật với dân Sài Gòn và hai vị lãnh đạo Cao Ðài và Hòa Hảo. Loạt đạn nổ vang vừa rồi không biết là để chào mừng hay dằn mặt vị đệ nhị Khu bộ phó ?

Trăm nghe không bằng một thấy, Tám Nghệ đã thấy tận mắt bốn vị khách quý trên thành xuống dự lễ tấn phong của Bảy Viễn.
Năm Tài giới thiệu Lâm Ngọc Ðường và Tư Thiên là trưởng phó ban ủng hộ Chi đội 9 trên thành. Còn hai vị lãnh đạo tôn giáo lớn nhất Nam Bộ là Hộ pháp Phạm Công Tắc và Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là ủy viên đặc biệt trong ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam bộ. Ai nấy đều có chức tước rõ ràng.

Năm Tài trịnh trọng mời ngài Khu bộ phó Lê Văn Viễn lên phát biểu.
Bài diễn văn do Tám Tâm soạn và đã được Năm Tài phê duyệt. Nhưng có vài câu làm Năm Tài giật nẩy người: "Bộ đội Bình Xuyên gồm phần lớn dân lao động nghèo từng phải làm lục lâm thảo khấu mà sinh sống qua ngày, nhưng giờ đây, theo kháng chiến, tâm tư tình cảm anh em đã đổi khác. Từ dân giang hồ, anh em trở thành các chiến sĩ yêu nước. Tuy nhiên, anh em nên đề phòng nhưng kẻ bất lương sống phè phỡn trên xương máu đồng đội".

Năm Tài nhớ rõ bài diễn văn mà mlnh đã duyệt lại chắc chắn không có mấy câu đó. Vậy Tám Tâm nhét vô hồi nào?
Bảy Viễn vừa đọc xong là Năm Tài xin lại bài diển văn để kiểm tra:
- Ai thêm vô mấy câu này? Năm Tài rút viết gạch đít rồi trao cho Bảy Viễn.
Bảy Viễn cười:
- Có ai thêm vô đâu ? Bài diễn văn được Tám Tâm đánh máy sạch sẻ, lại có chữ ký của Năm Tài dưới mỗi trang. Mà mầy thắc mắc làm gì ? Chính nhờ mấy câu đó mà người ta vỗ tay hoan nghinh quá trời đất !
Dù cho qua nhưng Năm Tài vẫn biết Tám Tâm "chơi xỏ" mình và ngày đêm theo dõi hành động của Tám Tâm.

Ðầu hôm tân nhạc làm sôi nổi rùm beng, nhưng tới khuya thì cổ nhạc bắt đầu lên tiếng.
Hai Dậu đờn kìm, Paul Thin đàn ghi ta , Mười Nguyên đàn tranh, Mười Một đàn vĩ cầm, cô Năm Cần Thơ, rồi cô Ba Bến Tre thay nhau hát những bản sở trường của mình (đã dược thâu vô đỉa hảng Asia bán khắp Nam Kỳ lục tỉnh).
Quan khách, cán bộ và chiến sĩ, đa số gốc nông dân nên rất mê vọng cổ. Ðêm càng khuya, tiếng đàn giọng hát càng rung động lòng người. Bảy Viễn cưới nói:
- Thưởng thức vọng cổ phải thưởng thức tại đây, giữa đồng không mông quạnh mới đã ! Còn nghe vọng cổ giữa Sài Gòn sao mà lảng xẹt ! Phải không quí vị ?

Tiệc vui cuối cùng cũng kết thúc, nhưng với hai vị lãnh đạo Cao Ðài và Hòa Hảo thì vẫn còn tiếp diễn. Khi quan khách đã về hết, hai vị này ở lại bàn chuyện cơ mật với ngài Khu bộ phó.
Các nhóm chính trị và giáo phái muốn liên kết lập một mặt trận liên tôn chống thực dân mà cũng chống cả Việt Minh. Họ muốn ở giữa . Huỳnh Phú Sổ muốn đi thăm các chi đội Bình Xuyên như Liên chi 23 để làm quen với Năm Hà, Sáu Ðối, Mười Lực, Năm Chẳng. Bảy Viễn liền cho liên lạc đưa Huỳnh giáo chủ qua Phước An ngay. Còn Phạm Công Tắc thì muốn kết nghĩa với Chi đội 4 của Mười Trí.

Khi thầy Tư Hòa Hảo (tên thường gọi của Huỳnh giáo chủ) và Năm Lửa tới Liên chi 2-3 thì Chánh văn phòng Ba Xuân bực lắm. Anh đã nghe tin Hòa Hảo cướp chính quyền thị xã Cần Thơ ngày 9.9, do con trai Năm Lửa là Trần Văn Hoành cùng em ruột họ Huỳnh là Huỳnh Phú Mậu và thi sĩ Việt Châu (cố vấn đặc biệt của Huỳnh giáo chủ) cầm đầu.
Cuộc binh biến bất thành, Tây bắt ba người lãnh đạo nói trên đem ra xử. Bây giờ thầy Tư Hòa Hảo tới Liên chi 2-3 để làm gì ? Với tinh thần cảnh giác, Ba Xuân ôm khẩu tiểu liên toan thủ tiêu giáo chủ. Nhưng anh Năm Hà, vốn trầm tĩnh, khoát tay khuyên Ba Xuân:
- Người ta tới với danh nghĩa là khách, mình phải tiếp đón lịch sự. Chuyện đâu còn có đó, chớ vội vàng. Dục tốc bất đạt ! .
Có thể nói số Huỳnh giáo chủ còn đó, nếu không thì chắc là đã bị Ba Xuân "hóa kiếp" từ ngày đó.



Mặt trận Quốc gia Thống nhất

Có một chuyện lạ là trong suốt thời kỳ giữ chức đệ nhất Khu bộ phó, Bảy Viễn không bao giờ về Bộ Tư lệnh Khu 7 họp.
Bảy Viễn không rời căn cứ Rừng Sác của mình. Còn Khu 7 thì lúc đầu đóng ở Tân Hòa, Lạc An (Chiến khu Ð).
Khi Pháp quyết định diệt Chiến khu Ð bằng những cuộc hành quân hải lục không quân, nhảy dù thì Nguyễn Bình dời tổng hành dinh về rìa Ðồng Tháp Mười, đóng dọc bờ sông vàm Cỏ Ðông. Ðến năm 1947 thì đóng sâu giữa Ðồng Tháp Mười, tại làng Nhơn Hòa Lập, nằm dọc con kênh mang tên thiếu tướng Dương Văn Dương.

Vì sao Bảy Viễn không về khu họp ? Trong quyết định đề bạt Bảy Viễn, Bộ Tư lệnh khu có ghi rõ: Mỗi quyết định của Bộ Tư lệnh phải có hai chữ ký mới có giá trị . Mà Bảy Viễn thì đóng xa Tổng hành dinh khu nên các quyết định của Bảy Viễn phải cho người mang tới Bộ Tư lệnh khu để lấy thêm chữ ký của Khu trưởng Nguyễn Bình hay Khu phó Tám Nghệ.
Về chi tiết này Năm Tài đã to nhỏ với Bảy Viễn:
- Nói ra sợ ông Bảy rầy, chớ tôi thấy chuyện Nguyễn Bình đưa ông Bảy lên làm đệ nhất Khu bộ phó chỉ là cái bánh vẽ!
Bảy Viễn nổi quạu:
- Cái bánh vẽ ? Mầy nói rõ hơn cho tao nghe coi ?
- Bánh vẽ là như thế này: Ông Bảy quyết định, ký tên đàng hoàng đóng dấu đệ nhất khu bộ phó, vậy mà quyết định đó chẳng có giá trị gì ! Phải đưa cho Nguyễn Bình hay Tám Nghệ ký vô nữa thì mới có giá trị . Vậy là bánh vẽ rồi, còn gì nữa ?
Bảy Viễn chau mày :
- Mầy phân tách rành rẻ như vậy, tao mới thấy. Nhưng mà Tám Nghệ ký quyết định cũng phải có chữ ký của Nguyễn Bình .
Năm Tài cười ranh mãnh :
- Ý , nhưng Nguyễn Bình với Tám Nghệ là một phe hai tay đó là cộng sản. Còn ông Bảy là chiến sĩ quốc gia yêu nước, không đảng phái. Vậy là phe quốc gia là thiểu số bị chèn ép. Ông Bảy có thấy không?
Bảy Viễn đưa ra một lá thư:
- Nguyễn Bình mời tao đi họp ở Ba Thu, tao ngại gặp nó quá?
Năm Tài đưa hai tay lên như can ngăn:
- Ý, không được đâu ! Ông Bảy không nên đi ! Nếu cần thì phái ai đó đại diện. Nghe nói nhiều người vô đó rồi mất tích. Có lẽ đã bị thủ tiêu cũng không chừng .
Bảy Viễn vứt lá thư xuống bàn:
- Vậy thì mình không đi. Ðể mình cử Năm Hà, bên Liên chi 2 đi thăm dò xem đã .
Năm Tài mừng rỡ - ông bà mình nói chí lý:
- Thà làm đầu gà hơn đuôi phụng. Ông Bảy làm vua ở Rừng Sác này chẳng sướng hơn làm phó cho thằng trôi sông lạc chợ Nguyễn Bình sao?
Bảy Viễn nhăn mặt:
- Mầy nói nhiều quá, tao nghe không kịp ! Ðể cho tao suy nghĩ .
Những lời xúc xiểm của Năm Tài thấm dần trong tâm trí Bảy Viễn.

Ðầu năm 1948 , cáo già Bazin và trung tá Savani được lệnh của Cao ủy - Ðô đốc D argenlieu xúc tiến thành lập Mặt trận Quốc gia Liên minh gồm các đảng phái phản động chống phá Việt Minh. Tất nhiên Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên được quan tâm trước nhất.
Ði đầu trong chủ trương theo Pháp là Trần Quang Vinh ; về đầu Pháp rồi ký hiệp ước với tỉnh trưởng Tây Ninh lôi hai chi đội 7 và 8 của Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thành Phong về bảo vệ Tòa thánh Tây Ninh vào tháng 5.46.
Tới tháng 8.46, Hộ pháp Phạm Công Tắc từ đảo Comores được Pháp phóng thích về lập quân đội Cao Ðài chống Việt Minh.

Năm Tài được lệnh Phòng Nhì khuyến dụ Bảy Viễn tham gia Mặt trận này.
Ông Bảy được nhiều người trên thành nhắc quá .
Bảy Viễn cười:
- Nhắc tao về việc gì ?
- Thiên hạ muốn ông Bảy đứng ra chỉ huy một tổ chức cực kỳ quan trọng, đó là Mặt trận Quốc gia Thống nhất.
Mặt trận đó là mặt trận gì? -Bảy Viễn hỏi.
- Như tên chỉ rõ, đó là một mặt trận thống nhất các đảng phái quốc gia chống Pháp mà cũng chống Cộng sản tức là Việt Minh.
Bảy Viễn giật mình:
- Mày hết chuyện rồi sao Năm Tài ? Tao là độ nhất Khu bộ phó Chiến khu 7. Vậy là Việt Minh chánh cống. Sao mầy gợi ý cho tao đứng ra chống Việt Minh?
Năm Tài cố thuyết phục:
- Ông Bảy chưa biết Cộng sản. Họ có tin anh em giang hồ của ông Bảy đâu ? Họ chỉ lợi dụng dân giang hồ theo kháng chiến được lúc nào hay lúc ấy . Ngay khi đưa ông Bảy lên chức Khu bộ phó, Nguyễn Bình cũng tìm cách hạn chế quyền hạn của ông Bảy. Ký quyết định phải có hai chữ ký. Một chữ ký của ông Bảy không có giá trị gì.
Bảy Viễn lại chau mày:
- Mầy nói thêm về cái Mặt trận Quốc gia Thống Nhất cho tao nghe coi.
- Mặt trận gồm các giáo phái mạnh như Cao Ðài, Hòa Hảo, Công giáo, Tịnh độ cư sĩ, Tin lành rồi các đảng quốc gia chống Cộng sản.
Họ tập hợp lại để buộc cả Pháp lẫn Việt Minh phải chia quyền cho họ. Không ai được độc quyền chính trị... Sắp
tới sẽ họp sơ bộ tại Bà Quẹo, có Hộ pháp Phạm Công Tắc, có giáo chủ Huỳnh Phú Sổ tới dự.
Bảy Viễn suy nghĩ khá lâu :
- Tao chỉ định mầy đại diện tao đi họp rồi về báo cáo trước đã. Rồi sẽ tính sau.



Thu Thuế nuôi quân

Hiệp định sơ bộ 6.3.46 được ký kết, theo đó Pháp công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việc thống nhất sẽ được quyết định bằng một cuộc trưng cầu dân ý.
Nhưng bọn thực dân không tôn trọng hiệp ước này.
Ðô đốc - Cao ủy D argenlieu tuyên bố Hiệp ước không liên quan gì tới Nam Bộ.
Hai tháng sau, vào ngày 7.5.1946 đại tá Cédille, ủy viên Cộng hòa tới Nam kỳ theo lệnh Cao ủy D argenlieu lập ra chính phủ Nam Kỳ tự trị, đưa bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng.
Tiếp theo đó, chúng lập Mặt trận Quốc Gia Thống nhất (MTQGTN) để ủng hộ chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh, đồng thời chống phá việt Minh.

Từ trong bưng, Khu trưởng Nguyễn Bình theo dõi diễn tiến của các hoạt động của thực dân và tay sai qua báo chí và qua báo cáo của các Ban Công tác thành. Nhận thấy vai trò phản động của MTQGTN, Nguyễn Bình ra lệnh giải tán tổ chức này. Các Ban Công tác thành rải truyền đơn, ném lựu đạn vào trụ sở mặt trận để cảnh cáo trước nhưng phần tử ngoan cố.
Trước hoạt động mạnh mẽ của quân đội của các Ban Công tác thành ở ngay sào huyệt Sài Gòn, bọn Việt gian hoảng sợ, không dám tung hoành ngang dọc như trước.
Thủ tướng Nguyễn Văn Thinh cũng tự thấy mình đi sai đường, vì ngây thơ chính trị mà âm mưu thực dân Pháp nên đã tự kết liễu đời mình bằng cách treo cổ trong tư dinh vào rạng sáng chủ nhật 10.11.46.

Khi Nguyễn Bình giải tán MTQGTN, Bảy Viễn ngày đêm lo lắng, không rõ Nguyễn Bình sẽ có hành động gì với mình. Nhưng chờ mãi vẫn không thấy Khu đá động gì tới việc mình "xé rào" và "đi đêm" với các lãnh tụ Cao Ðài, Hòa Hảo nên Bảy Viễn bớt lo và tự giác ngừng giao du với các tổ chức chống phá kháng chiến.
Mối quan tâm lớn nhất lúc đó của Bảy Viễn là tranh cho được chức thủ lĩnh Liên khu Bình Xuyên mà trước đây Ba Dương rồi sau đó Năm Hà chiếm giữ.
Nhưng giữa tháng 4.1946 thì mơ ước của Bảy viễn đã tan thành mây khói, anh Năm Hà, Tư lệnh Liên chi 2-3 nhận được công điện của Khu trưởng Nguyễn Bình về việc bầu chọn người thay thế cố Thiếu tướng Ba Dương trong cương vị chỉ huy trưởng Liên khu Bình Xuyên.
Nguyên văn như sau :
"VNCÐH - Vệ quốc đoàn - số 7/3/KB
Tổng hành dinh, ngày 12.4.1946
Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng Khu thứ 7, nước Việt Nam
Kính gửi đồng chí Dương Văn Hà, Tư lệnh Vệ quốc đoàn Bình Xuyên.
Về việc đồng chí được cử thay đồng chí Dương, tôi rất tán thành. Mong đồng chí đừng phụ lòng mong mỏi ký thác của anh em chiến sĩ Bình Xuyên, của tôi, của đồng chí Dương Văn Dương đã quá cố, nhất là giữ tiếng tăm cho đồng chí Dương là người lỗi lạc, khác hẳn với Ðệ tam , Ðệ tứ sư đoàn phản động và lôi kéo bè phái . Có được như vậy mới thật là xứng đáng với anh linh đồng chí Dương Văn Dương, người đã hy sinh oanh liệt cho Tổ quốc.
Ngoài ra tôi không đồng ý việc mượn tiền dân. Bộ đội nên tăng gia sản xuất để dân dược nhẹ phần đóng góp.
Mặt khác tôi không cho phép vợ con đi theo bộ đội, tránh tình trạng ô hợp như Ðệ tam, Ðệ tứ sư đoàn, HT29. . . "
Tin Năm Hà được chính thức nhìn nhận là Chỉ huy trưởng Liên khu Bình Xuyên thay anh Ba Dương được phổ biến khắp miền Ðông.
Bảy Viễn nuốt nước bọt, chờ thời cơ sẽ tới trong những năm sau.

Tuy Khu không đá động tới việc Bảy Viễn tham gia MTQGTN, nhưng Nguyễn Bình bắt đầu theo sát hành tung của Bảy Viễn. Phong cách lãnh đạo của Bảy Viễn còn dáng vẻ giang hồ. Có sự ngăn cách giữa cấp chỉ huy với chiến sĩ. Phần lớn cấp bộ đại đội là dân anh chị nên xem binh sĩ như lâu la em út. Cán bộ tiểu đoàn tách rời cấp dưới. Nghe sinh hoạt của Bảy Viễn chẳng khác lãnh chúa, dưới trướng có nhiều bề tôi sẵn sàng làm mọi việc theo lệnh Bảy Viễn. Xa xỉ phẩm do Lâm Ngọc Ðường và Maurice Thiên cung cấp không bao giờ thiếu. Ở rừng mà có rượu chát đỏ, rượu chát trắng, rồi Martell, Cognac, sâm banh, bia Con cọp uống thay nước. Cà phê, sữa hộp, ca cao đủ thứ, trên thành có gì, Rừng Sác có nấy.

Nhưng điều mà Nguyễn Bình quan tâm nhất không phải là sinh hoạt đế vương của Bảy Viễn mà là cách thu thuế nuôi quân của Chi đội 9. Nhờ án ngữ hai con sông cái dẫn tới Sài Gòn -Chợ Lớn, Chi đội 9 đón tất cả ghe thương hồ từ miền Trung và miền Tây, lấy thuế.
Ðể không bỏ sót, Chi đội 9 lập nhiều trạm thuế ở tất cả vàm rạch.
Bảy Viễn thấy thu thuế là nguồn lợi lớn nên chọn Ba Tuấn là con Hội đồng Thì ở Bến Tranh, Dầu Tiếng làm trưởng ban.
Ba Tuấn có Tú tài, khi kháng chiến bùng nổ, Ba Tuấn chưa biết đầu quân đâu thì cha anh khuyên nên theo chú Bảy Viễn là người quen biết của ba.
Khi làm Trưởng ban Thuế vụ của Chi đội 9, Ba Tuấn mới thấy thương - dân thương hồ.
Bộ đội nào cũng đều có quyền gọi ghe buôn lại để thu thuế. Thành ra một ghe chở nước mắm từ Phan Thiết vô hay một ghe chở hột vịt từ Mỹ Tho lên phải đóng bao nhiêu lần thuế.
Ba Tuấn mở hội nghị với các chi đội phân chia ranh giới thu thuế để tránh giẫm lên nhau và cũng tránh cho người dân buôn bán trên sông chịu nhiều đau khổ.
Nhưng nạn giành nhau thu thuế đã đưa tới sự xung đột giữa Chi đội 9 và Ban Kinh tài của Khu.



Có đi không có về !

Trong khi các chi đội ở miền Ðông theo chỉ thị của Khu trưởng Nguyễn Bình lo tăng gia sản xuất để nhân dân nhẹ phần đóng góp nuôi quân thì Chi đội 9 lo thu thuế các ghe thương hồ.
Các quận Nhà Bè, Cần Ðước, Cần Giuộc đêu có ban thu thuế nên các nhân viên thu thuế , đụng ghe nào cũng thu. Dân đi buôn trên sông nước kêu trời như bộng !
Từ ngày Ba Tuấn làm trưởng ban thuế vụ Chi đội 9 thì có sự phân ranh rành mạch.
Nhưng nguồn thuế lớn nhất cho kháng chiến là ngay trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Các hãng, xưởng lớn đều gửi tiền nuôi quân hàng năm.
Ðóng góp nhiều nhất là giới chủ nhà thuốc Tây. Không chỉ gửi tiền mà còn gửi thuốc men vô khu.
Về sau nhận thấy ủng hộ tiền bạc thuốc men chưa đủ hai ông dược sĩ có tiệm thuốc Tây tại Sài Gòn là Hồ Thu (quê Phan Thiết) và Bùi Quang Tùng (quê Bến Tre) bỏ thành vô khu theo kháng chiến.

Người Tàu ở Chợ Lớn thì có người đóng, người không. Chủ nhà hàng Ðại Thế Giới viện cớ đã đóng thuế cho Tây rồi, không thể đóng cho Việt Minh được. Vậy là phải dùng biện pháp mạnh với tay này: Ban Công tác lập kế bắt cóc đưa vô Khu, giải thích cho anh ta biết giới tư sản kinh doanh trên đất nước Việt Nam phải có nghĩa vụ đóng thuế lợi tức cho chính phủ Việt Nam. Pháp chỉ là kẻ tạm chiếm mà thôi. Ðặc khu Sài Gòn -Chợ Lớn phải mở một phiên tòa hẳn hoi đưa tên chủ Ðại Thế Giới ra xử, hắn mới chịu khẩu phục tâm phục.

Trở lại Ban Thuế của Chi đội 9 ở Chợ Lớn. Người phụ trách là ông Bồ Văn Kiểu.
Ông Kiểu là dân tài tử, thuở trẻ có học quyền Anh, rất mê đàn ca, kết bạn với các nghệ sĩ cải lương, chơi thân với các lực sĩ đá banh, quần vợt, đua xe đạp.
Khi ta cướp chính quyền, ông Kiểu được giao giử chức Giám thị trưởng Khám Lớn Sài Gòn. Lúc Tây đánh chiếm Sài Gòn ngày 23.9.1945 , ông Kiểu được giao quản lý Nhà máy Ðường Hiệp Hòa . Sau đó ông được Bảy Viễn mời phụ trách thu thuế các chành lúa trong Chợ Lớn.
Các nhà máy xay phần lớn đều ở bến Bình Ðông, xa trung tâm thành phố và thuận đường nước, kế bên kênh rạch. Các ghe lúa gạo từ miền Tây lên đây bán cho chành.
Hầu hết chủ chành là người Tàu.
Muốn thu thuế phải túc trực sẳn, như dân quê nói "đụng đâu xâu đó" hay "thấy mặt đặt tên".
Người Tàu không tha thiết với chính trị, họ chỉ lo làm ăn thôi. Cho nên thu thuế không phải chuyện đơn giản.
Ông Kiểu gần như ngày đêm luôn luôn có mặt tại chành.
Trong thời bình thì chẳng có gì đáng nói, nhưng đây là thời chiến, bọn Pháp cứ đi tuần tiễu, nhất là các vùng ngoại ô, gọi là "xôi đậu" -sáng ngày là của Tây nhưng từ chạng vạng trở đi là của ta. Rất nhiều lần trong tuần, ông Kiểu phải "chém vè" khi đụng Tây ruồng bố.
Do tích cực thu thuế nên số thu chi của Chi đội 9 do ông Kiểu đem lại rất lớn.

Chuyện này tới tai Ban Kinh tài của Khu.
Trưởng ban Kinh tài Khu là người thiếu tầm nhìn xa, chỉ thấy lợi ích của đơn vị mình nên nghĩ cánh giành nguồn thu nhập quá lớn này. Anh ta báo cáo về Khu dề nghị dẹp trạm thuế ở các chành lúa gạo bến Bình Ðông, vì thu nhập đó chỉ giúp cho Bảy Viễn sống phè phỡn, còn binh sĩ Chi đội 9 vẫn thiếu thốn đủ mọi bề.
Nhưng thật tai hại, không rõ anh ta báo cáo thế nào mà trong một đêm tối trời , ghe của ông Kiểu đậu bên bờ kênh bị mấy loạt đạn tiểu liên. Ông Kiểu chết tại trận.
Không ai nhận là tác giả nhưng loạt tiểu liêu đó, chỉ biết một cán bộ thuế đắc lực và dũng cảm dám bám sát vùng ngoại ô để thu thuế nuôi quân phải hy sinh một cách bí hiểm.

Hay tin này, Giáo sư Hồ Văn Lái, nguyên là thầy dạy vẽ Trường Trung học Pétrus Ký, lúc đó là Trưởng ty Tuyên truyền Ðặc khu Sài Gòn -Chợ Lớn đóng ở Vườn Thơm, sửng sốt nói với các bạn:
- Mình biết anh Bồ Văn Kiểu. Anh là một người có tâm hồn nghệ sĩ. Dám bám sát các chành lúa ở Bình Ðông là dũng cảm hơn người vì Tây lui tới ngày một. Rất tiếc là do các ban thu thuế tranh giành nhau mà anh Kiểu chết lãng".
Hay tin Bồ Văn Kiểu tử nạn, Bảy Viễn rống lên:
- Tụi bây điều tra coi thằng nào ám hại cán bộ thuế của tao. Chắc chắn là thằng Trưởng ban Kinh tài của Khu. Nó muốn tranh giành nguồn thuế. Tao ra lệnh cho tụi bay thủ tiêu thằng đó, có gì tao chịu trách nhiệm !

Những vụ tranh giành thu thuế giữa Chi dội 9 và Ban Kinh tài Khu ngày càng gay gắt.
Có khi hai bên nổ súng thị uy nhau.
Khu phải họp giải quyết nạn thu thuế vô tội vạ.
Nguyễn Bình gửi thư mời Ðệ nhất khu bộ phó Bảy Viễn về Khu để họp bàn giải quyết. Nhưng Bảy Viễn lo sợ Nguyễn Bình sẽ thủ tiêu mình, như bọn Tài, Sang ngày đêm hù dọa nên Bảy Viễn đề cử Năm Hà đi thay.
Năm Hà lúc đầu cũng sợ về Khu vì nghe tin đồn "có đi không có về !".
Năm Hà đề nghị Khu phải đưa thư ký riêng của Nguyễn Bình là anh Hai Trọng (Lương Văn Trọng) xuống Liên chi 2~3 làm con tin thì mới dám đi. Chuyện nghi kỵ nhau lúc đầu thật buồn cười nhưng thật ra cũng dễ hiểu vì Phòng Nhì cố tình gieo chia rẽ giữa Việt Minh cộng sản và những phần tử kháng chiến quốc gia.
Năm Hà lên Khu, thấy Nguyễn Bình, Tám Nghệ đối xử thân tình, mới hết nghi ngờ. Trở về Phước An (Long Thành), Năm Hà cười bảo Hai Trọng:
- Có chuyện gì đâu! Trên đó cũng như dưới này, ai cũng một lòng đánh Tây. Ðâu có phân biệt trí thức hay giang hồ, quốc gia hay cộng sản. Rõ ràng là mình bị bọn đích ly gián .



Hồn ai nấy giử

Tuy Mặt trận Quốc gia Thống Nhất (cũng được gọi là Mặt trận Quốc gia Liên hiệp) bị Trung tướng Nguyễn Bình giải tán, Hộ pháp Phạm Công Tắc vẫn tiếp tục thúc đẩy quân đội Cao Ðài ráo riết đánh phá vùng rừng núi, lấn chiếm các khu giải phóng. Cái thế của Hộ pháp là "ky hổ nan hạ" đã lỡ leo lên lưng cọp rồi, nhảy xuống là bị thực dân "thịt" ngay.
Bên ta, Khu 7 và tỉnh Tây Ninh chủ trương mở rộng đoàn kết, nhiều dân tiếp xúc với các chức sắc cao cấp trong Tòa thánh, mời tham gia Việt Minh và vận động tín đồ Cao Ðài tham gia kháng chiến như những ngày đầu giành chính quyền. Nhưng các chức sắc cao cấp Cao Ðài ngả theo Hộ pháp chống đối Việt Minh và trở thành công cụ đắc lực cho thực dân. Ðược Pháp tiếp tế súng đạn, trả lương hàng tháng, quân đội Cao Ðài hành quân liên miên, gây khó khăn cho vùng tự do.
Trong tình thế đó, Khu 7 thành lập các liên quân đương dầu với quân đội Cao Ðài đang thọc sâu vào vùng tự do.
Qua tình báo, Khu 7 biết Pháp sẽ làm lễ giao súng ống cho quân đội Cao Ðài tại Tòa thánh Tây Ninh vào đêm giao thừa Tết Ðinh Hợi (nhằm ngày 21.1.1947).
Tham mưu trưởng Khu 7 Huỳnh Kim Trương chủ trương đánh ngay đầu não địch để phá vở lễ giao súng cho quân đội Cao Ðài. Nhưng cuộc tấn công không đạt được mục đích mong muốn về quân sự cũng như về chính trị .
Hộ pháp Phạm Công Tắc rải truyền đơn thanh minh rằng Tòa thánh trá hàng lãnh súng của Tây để sau này đánh lại Tây và yêu cầu Việt Minh giao chiến trường Tây Ninh cho họ, đồng thời Tòa thánh mời Việt Minh cử đại diện vô Tòa thánh hội đàm.
Khu chỉ định ba người: Dương Minh Châu, Nguyên Hữu Dụ và Trần Văn Ðẩu vô hội đàm với các chức sắc cao cấp Cao Ðài trong hai ngày.
Kết thúc, cuộc họp không đem lại kết quả nào.
Nhưng hậu quả thật là đáng tiếc: Vừa về tới căn cứ thì bị Pháp hành quân "chụp" đúng cơ quan, nên Luật sự Dương Minh Châu, Chủ tịch Uy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh , hy sinh !
Các cuộc thanh trừng ngày càng ác liệt. Dân vô tội ngã gục giữa hai thế lực giao tranh.
Ðó là những năm đen tối trên chiến trường miền Ðông.

Trước tình thế đó, Bảy Viễn càng tách rời Nguyễn Bình.
Năm Hà còn về Khu họp một lần, còn Bảy Viễn thì "hồn ai nấy giữ".
Xung đột Cao Ðài -Việt Minh chưa ngã ngũ thì lại xảy ra mâu thuẫn Hòa Hảo - Việt Minh.
Mâu thuẫn này bắt đầu từ tháng 9.45, khi giáo chủ Huỳnh Phú Sổ tới Lâm ủy Hành chính Nam Bộ yêu cầu đồng chí Nguyễn Văn Tây giao bốn tỉnh có tín đồ Hòa Hảo cho ông ta trông coi.
Ông Nguyễn Văn Tây chỉ lên bản đồ Việt Nam treo tường nói:
- Ðất nước Việt Nam là một. Không ai có quyền chia cắt. Tôi đâu có quyền làm theo yêu cầu của giáo chủ .

Sau đó, ngày 9.9, Trần Văn Thành là con Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) cùng em giáo chủ là Huỳnh Sanh Mậu và cố vấn giáo chủ là thi sĩ Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp cầm đầu nhóm tín đồ Hòa Hảo tấn công chợ cá Cần Thơ. Ðến tháng 4.47, Hòa Hảo được sự hỗ trợ của quân đội Pháp lại nổi lên chiếm được một số làng xã trong quận Tân Châu (Châu Ðốc), Chợ Mới (Long Xuyên) và Châu Thành (Sa Ðéc). Khu 9 lại tổ chức hai cánh quân tảo thanh Hòa Hảo.
Ðây cũng là những năm đen tối, đất nước chìm trong cảnh "nồi da xáo thịt" do âm mưu chia rẽ để trị của bọn thực dân.

Bảy Viễn học được cái khôn của người xưa là "tọa sơn quan hổ đấu" , vừa xem vừa rút kinh nghiệm. Và Bảy Viễn đã tìm cho mình con đường "lội giữa hai dòng nước" - không theo Pháp, cũng không theo Việt Minh.
Ðây cũng là "cao kế" của quân sư Năm Tài.
Bảy Viễn nghe theo cố vấn Tư Thiên, chọn thế án binh bất động, không đánh Pháp trên hai sông Lòng Tàu và Soài Rạp - tất nhiên cũng không đụng bộ đội Việt Minh - biến chiến khu Rừng Sác thành một căn cứ an toàn không có tiếng súng.
Cái lợi trước mắt là khỏe thân mà lại được tiếp tế đều đều . Ðúng là lãnh chúa sống đời đế vương trong thời loạn.
Nhưng tình báo của Khu đã phát hiện những dấu hiệu "đi đêm" của Bảy Viễn và khẩn cấp báo về Khu.