Hò chèo ghe

Lê Tấn Tài 

Hò là một trong những dạng âm nhạc dân gian phổ biến ở miền Nam, đã được truyền bá từ xa xưa qua các chuỗi di dân từ vùng đất Ngũ Quảng. Sức hút của hò đến từ vẻ độc đáo mà nó mang lại. Trong các dạng hò, “hò chèo ghe Bạc Liêu” là điệu hò trong lúc chèo xuồng, ghe hòa theo nhịp chèo khuấy nước. Đây là một hình thức giải trí, đồng thời cũng là cách để lưu giữ và truyền bá những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Hò thường ca ngợi vẻ đẹp đất đai và con người Bạc Liêu – nét đẹp mộc mạc, hiền hòa của người dân miền Nam – xuất hiện gần như đồng thời với các giọng hò Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh và hò sông Hậu, bởi chúng đều liên quan chặt chẽ đến hệ thống sông ngòi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đáng chú ý, tên tuổi của Cao Văn Lầu với bài vọng cổ nổi tiếng “Dạ Cổ Hoài Lang” cũng gắn kết với vùng đất này.

Hò chèo ghe chia thành hai loại chính: hò đơn và hò đôi.

Hò đơn trong đó chỉ có một người duy nhất trình bày một đoạn hò, thường là một đoạn thơ.

“Hò ơ ớ ơ ơ …
Bậu có chồng như cá vô lờ
Tương tư nhớ bậu (ớ ờ)…
Tương tư nhớ bậu, dật dờ năm canh (ơ ơ)”

“Ơ… hò… ơ… hò
Trời cao hơn trán
Trăng sáng hơn đèn
Kèn kêu hơn quyển
Biển rộng hơn sông
Nghĩa nhân lai láng chẳng đành
Anh ơi biểu anh đừng có thương trước cho uổng công
Để cho mà thiệt vợ thiệt chồng sẽ mặc sức mà thương”

Hò đôi được hò bởi hai người hoặc nhiều hơn, thường là nam và nữ, để chia sẽ một câu chuyện, một tình huống hoặc một trạng thái cảm xúc. Hò đôi thường đòi hỏi sự đồng thuận và hòa quyện giữa người hò nhằm truyền đạt cảm xúc tốt nhất đến người nghe.

– Cô gái hò:
Hò ơ ớ ơ ơ …
Ghế mất một chân nên gọi là ghế gẫy
Người lạc tâm hồn bậu hỡi gọi sao?
Ngẩng đầu ngắm những vì sao (ơ ờ) …
Hò ơ ớ ơ ơ …
những vì sao …
Cái lu cái tỏ … cái nao riêng mình? (ơ ơ )

– Chàng trai hò đáp:
Hò ơ ớ ơ ơ …
Trách ai quên hai chữ nghĩa tình
Quên câu thề hẹn đôi mình trăm năm
Chống chèo theo nước lớn ròng (ơ ờ) …
Hò ơ ớ ơ ơ …
theo nước lớn ròng …
Dò tìm bóng bậu cõi lòng nát tan (ơ ơ)

– Chàng trai hò tiếp:
Hò ơ ớ ơ ơ …
Bìm bịp kêu con nước giọng khàn
Rạch sông mù lối khói sương mù trời
Biết tìm đâu hỡi bậu ơi (ơ ờ) …
Hò ơ ớ ơ ơ …
Tìm đâu hỡi bậu ơi …
Bóng chiều dần xuống mưa rơi mịt mùng (ơ ơ) …
Hò ơ …
“Tìm bậu như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc (ơ ơ ơ ) tôi tìm biển Nam” (ơ ơ)

– Cô gái hò:
Hò ơ ớ ơ ơ …
Gá duyên chẳng đặng hội này
Tôi chèo ghe ra sông cái (ớ ờ)
Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy… tôi chèo vô” (ơ ơ)

– Chàng trai hò đáp:
Hò ơ ớ ơ ơ …
Chèo vô chẳng thấy bậu đâu!
Nước ròng sông cạn (ớ ờ)
Nước ròng sông cạn lòng đau thấu trời (ơ ơ) Hò ơ ớ ơ ơ …
Ước gì như áng mây trôi
Anh bay đi kiếm (ớ ờ)
Anh bay đi kiếm tìm người anh thương!(ơ ơ)

Sau năm 1945, lối hò đôi trở nên phổ biến hơn. Giọng hò không đơn giản như trước, mà mang chất trữ tình, giao lưu và trao đổi tình cảm. Hình thức hò này nhanh chóng trở thành một sinh hoạt tập thể, như đối đáp và huê tình, và được nâng cao thành một hình thức văn hoá nghệ thuật trong dân gian. Dân miền Tây luôn sống theo triết lý “có của để dành”, tận dụng những nguồn tài nguyên từ thiên nhiên một cách khôn ngoan. Họ biết rằng, những gì họ ăn hôm nay, ngày mai vẫn sẽ có đủ. Tư duy này đã tồn tại từ thời kỳ khai hoang, khi mà lo lắng về đói no không còn là nỗi sợ hãi. Với họ, mỗi buổi mưa hoặc nắng không làm thay đổi cuộc sống bình yên của họ. Họ không gặp gỡ nhiều áp lực và hối hả, sống theo một nhịp điệu chậm rãi. Đi từ nơi này đến nơi khác, từ xóm này sang xóm khác, chỉ đơn giản là việc chèo xuồng hoặc bơi trên những chiếc ghe ọp ẹp. Khi có hai chiếc ghe, một chiếc trước và một chiếc sau, người đàn ông thường hò gọi:

“Hò…ơ
Theo em đứt bộ quai chèo
Em thương bớt lái, khoan chèo đợi anh”

Hoặc:

“Hò… ơ
Xuồng ai đi trước bọt nước nổi phềnh
Chờ tôi đi với tâm tình đôi câu”

Cho dù chàng trai đã lập gia đình hay chưa, nếu trong hoàn cảnh nầy mà không đáp lại lời hò của nàng, thì không thể coi là dân miền Tây sông nước. Thường thường các ghe thương hồ neo trạm ở những vùng giáp nước chờ nước ròng để lướt nhẹ ra sông lớn, như trên dòng sông Vàm Nao, nối liền sông Tiền và sông Hậu, hoặc những đoạn giáp nước ở Thủ Thừa, kết nối hai dòng sông Vàm Cỏ. Các cuộc hội hò đối đáp ở những nơi nầy thường diễn ra sôi nổi. Hội hò tự động phân thành hai đội, đội nam và đội nữ tranh tài. Họ chọc ghẹo và đùa giỡn qua những câu hò, khi thanh khi tục, có hồi suông, có hồi lặng, có những chủ đề quê hương, và có những chủ đề ẩn dấu. Khi cặp đôi nào cảm thấy hợp nhau, họ sẽ đánh dấu chỗ đó, dựng cột, để chiếc ghe chở họ lại gần nhau, thân thiện trò chuyện. Nhiều mối quan hệ bạn bè chân thành đã bắt đầu từ những khoảnh khắc đáng nhớ này. Đối với nhiều đôi đang hẹn hò từ xa, việc gặp nhau tại đây thường là khởi đầu cho duyên chồng vợ…
Tuy nhiên, vào những năm 1960, khi việc sử dụng ghe và xuồng trên sông giảm bớt, giọng hò chèo ghe cũng trở nên ít thấy trên các dòng sông và rạch. Ngày nay, điệu hò chèo ghe và điệu hát thơ gần như không còn tồn tại trong thực tế, và lối hò này dần chìm vào quên lãng, chỉ còn lại trong ký ức của những người lớn tuổi.Những đoạn hò chèo ghe sau đây không chỉ thể hiện tinh thần yêu quê, yêu đất của người dân Bạc Liêu mà còn thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo trong ngôn từ, âm nhạc và cách diễn đạt.

Những đoạn hò chèo ghe sau đây không chỉ thể hiện tinh thần yêu quê, yêu đất của người dân Bạc Liêu mà còn thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo trong ngôn từ, âm nhạc và cách diễn đạt.

Đoạn hò chèo gọi ghe vào bến:
“Bến Cầu Quay mở bát ngát,
Lễ hội đón ghe cả làng ra quan.
Ghe trung cấp làm tiên phong,
Đem lòng dũng cảm hòa mình xuôi ngược.”

Đoạn hò chèo ca ngợi đất đai và người dân:
“Bạc Liêu đất đẹp cường thịnh,
Ghe chèo lượn sóng, nước mặn dày tình.
Gặp người phố xa khoe vườn,
Lúa rộng, dân đều, chẳng cần lo thiếu.”

Đoạn hò chèo kể về đời sống hàng ngày:
“Trời sinh Bạc Liêu dòng sông,
Người miền Tây ấm lòng vui bên đời.
Đánh cá, trồng trọt quên mệt,
Bạc Liêu phồn thịnh, lòng người đong đầy.”

Xuất phát từ thuở khai hoang ngày xưa, hò chèo ghe đã truyền đạt tình cảm, tâm trạng con người và thiên nhiên qua nhạc điệu, diễn tả các đề tài về cuộc sống hàng ngày của người dân miền Nam, thể hiện cảm xúc của mình về tình yêu, lòng trung hiếu, tình bạn, hay đơn giản chỉ là những suy tư sâu lắng về cuộc sống trên sông nước. Nhìn chung, lời hò thể hiện sự khắc sâu và chân thành với cuộc sống lao động, gian khổ của người dân, đồng thời cũng thể hiện tình yêu quê hương trong tâm hồn người sáng tác và người nghe.
Như câu hò “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê” mô tả hình ảnh của người lái ghe trên sông, gặp những khó khăn do sự biến đổi của thời tiết, những cơn nước lớn, phải làm việc vất vả mỗi ngày, buôn bán không lời, vượt qua mỏi mệt để kiếm sống.
Hoặc câu hò sau đây mô tả sự sự liên tục, không ngừng nghỉ của thời gian và cuộc sống, diễn đạt tình cảm nhớ mong, khát khao gặp gỡ người thân, bạn bè, người yêu ở xa, một niềm hy vọng trong lòng.
“Hò… ơ
Sông sâu sóng nước chảy hoài
Thương người xa xứ lạc loại đến đây”

Sơn Nam có một truyện ngắn “Con bảy đưa đò” ghi lại những câu hò đối đáp huê tình vô cùng thú vị:

“… Như thường lệ, con Bảy sửa soạn lên bờ ngủ. Khuya ít có khách sang ngang. Hơn nửa, trời chuyển mưa đen kịt phía Nam. Nhưng kia, một ánh đèn nho nhỏ chói lềnh bềnh giữa sông, từ từ trôi lại như cố ý đón đầu:
 Hò… ơ… Thân anh như con phụng lạc bầy.
Thấy em lẻ bạn, anh muốn vầy duyên loan.

Câu rao ấy thuộc loại tầm thường! Nhưng cảm mến cái giọng trai ấm áp, con Bảy hát lại:
– Gặp mặt anh đây, em muốn vầy hai họ,
Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia.

Khách cười to:
– Anh nói với em, anh đã có vợ nhà.
Vợ thì mặc vợ, anh xử hoà thì thôi!

Thừa lúc con Bảy đang rối trí, khách hò thêm một hơi:
– Anh thương em, thương quấn thương quít,
Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh.
Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui.
Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi.
Ðặt em nằm xuống đây…
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng, cơm hôi.
Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi.
Bây giờ em vinh hiển… em bắt anh đi bán nồi làm chi?

Ý trách người tình nhân bạc bẽo! Trí nhớ của con Bảy bao giờ cũng có cách sẵn sàng ứng phó:
 Bánh bò một vốn ba bốn đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Ðể em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau lại nuôi mình…
Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa em phải ở một mình bơ vơ!
 Khách bên xuồng nọ lên tiếng:
– Ờ nàng ơi!
Khiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây.

Tức thì khách quày xuồng đi trước, rủ con Bảy tranh tài với khách. Nào chịu thua, con Bảy liền bơi theo sau.
Mái chèo phía trước nhịp nhàng:
– Ðêm khuya anh thức dậy xem trời;
Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi.
Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược.
Nước chảy ngược, con cá nược nó lội theo.
Anh than với em rằng số phận anh nghèo.
Ðũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun.

Giọng con bảy lảnh lót đuổi theo:
– Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dỉa, dọn bàn,
Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu.
Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ,
Dưới nhà việc trống đổ tàn canh.
Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành?
Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua.”

Hò chèo ghe thật sự là một nét đẹp của văn hóa dân gian. Loại hình nghệ thuật này không chỉ đơn thuần là các điệu nhạc hay lời ca, mà còn là truyền thống, là tinh thần và là cách mà người dân kết nối với nhau, được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong từng lời hò, chúng ta cảm nhận được nhịp điệu của sông nước, hình ảnh của những cánh đồng xanh mướt, lòng trung hiếu và nỗi buồn sâu lắng của con người Việt Nam. Hò chèo ghe là cầu nối giữa quá khứ và tương lai, giữa những thế hệ trẻ và những truyền thống quý báu của đất nước. Trong thời đại ngày nay, việc gìn giữ và phát huy những giá trị này là vô cùng quan trọng, để chúng ta không chỉ tự hào với quá khứ mà còn có đủ tự tin để bước vào tương lai.

Mời thưởng thức một vài câu hò chèo ghe