Nguyễn Nhã Tiên
Gánh hát bội dọn đi lâu rồi, vậy mà đêm đêm vẫn cứ ngong ngóng… (Hình: Người Việt)
Có một thứ thanh âm dường như không bao giờ chịu tắt trong tôi, đã thế cứ mỗi lần Xuân đến nó lại bời bời lên tiếng như tiếng mẹ bên sông gọi tôi trở về.
Nhà tôi xưa ở bên kia dòng Vu Gia đối diện ngôi đình làng. Bởi thế, bao đêm hát bội ở sân đình đã neo đậu vào ký ức tôi bát ngát những thanh âm tuồng tích. Thường là liền sau Tết, những gánh hát bội như: Bàu Toa, Ông Xã Đàm, Anh Hoành… được làng tôi rước về hát kéo dài suốt cho đến lễ Kì Yên vào rằm Tháng Giêng. Vậy nên Tết nhứt ở làng tôi cũng vì thế kéo dài hơn những nơi khác.
Mà mơ ước của tuổi thơ thì Tết là cả một thiên đường. Cái thằng bé con loắt choắt là tôi có hiểu gì cho lắm tuồng tích Ngũ Hổ Bình Liêu hay Sơn Hậu, hay Lý Phụng Đình…, thế mà cứ y mười đêm như một, tôi chạy theo cha mẹ mình ra đình làng, rồi chen vào cho bằng được ở hàng đầu, sát bên sân khấu ngồi xem say sưa, thích nhất là những vai hề, vai tướng phép tắc tài ba tung hoành bay lượn trên sân khấu.
Cho đến một mùa Xuân nào đó tôi không còn nhớ rõ, cũng như bao đêm hát bội ở sân đình, nhưng trời đất ạ! Tôi bắt đầu biết… rưng rưng!
Nhân vật đã làm tôi bồi hồi xốn xang bao niềm xao xuyến không tên không tuổi ấy chính là nàng Trại Ba công chúa. Ôi chao, công chúa đúng là công chúa. Áo vàng kim tuyến lóng lánh mảnh trước mảnh sau kéo dài như cánh nàng tiên, dải lụa đỏ thắt ngang lưng, từng bước hài đi như nguyệt bước, võ nghệ tinh thông quyền phép cao cường mấy ai sánh kịp. Nhưng trước tình yêu, Trại Ba mong manh liễu yếu nhi nữ có ai bằng…
Đấy là sự mô tả nhân vật công chúa Trại Ba, mà cha tôi sau đêm xem hát bội về còn thức khuya ngồi bình phẩm bên bát nước ô tộ chè xanh do mẹ tôi nấu còn nóng hổi. Cứ sau mỗi lời bình là ông lại phì phò vừa thổi vừa uống như uống phải một thứ men say.
Còn tôi, gánh hát bội dọn đi lâu rồi, vậy mà đêm đêm vẫn cứ ngong ngóng về phía sân đình làng, nhận ra nơi ấy một quãng vắng mênh mông đầy gió. Thường những lúc vu vơ như thế, tôi chỉ còn biết nhại theo tuồng hát nghêu ngao: “Quá ải mau mau chưn bước. Dặm đề từ nước nước, non non. Thờ chồng đạo muốn vuông tròn. Dẫu cho uống tuyết cũng ngon tấm lòng. Cang thường một gánh nặng vai. Cũng nguyền sông giải, non mài mà thôi.” Đấy là màn công chúa Trại Ba phi ngựa đuổi theo nguyên soái Địch Thanh, nước mắt lưng tròng tiễn người quá ải.
Thuộc lòng đến vậy, nên khối lần tôi bị mẹ mắng không lo học hành, coi chừng mẹ cho ăn roi. Mẹ nói như vậy thôi, chứ chưa bao giờ đụng đến roi vọt.
Bao lần Tết, có những đêm chị em chúng tôi vừa phụ giúp mẹ gói nấu bánh, vừa nghe mẹ kể chuyện đời xưa, bất chợt có lúc mẹ ngẫu hứng đứng lên đóng vai công chúa Trại Ba hát cho cả nhà cùng nghe: Đờn đã im cầm sắt. Phận thêm đẹp xướng tùy. Đất tuy vẽ cuộc ba di. Trời khiến vầy duyên ngư thủy. Xin thỏa tình yến nhỉ. Mà cất chén giao hoa. Cơn sầu thôi đã chứa chan. Đoạn thảm vì ai đeo đuổi… Mỗi lần như thế, bên ánh lửa hồng bập bùng từ bếp nấu bánh, tôi thấy mẹ trẻ ra và đẹp hơn hết bao giờ. Phần tôi, bắt chước ba mình, tay múa ra roi chầu hai chầu ba, miệng giả tiếng trống “thùng, thùng, thùng,” tưởng thưởng công chúa Trại Ba – là mẹ tôi, đang tươi cười ngồi ăn trầu ngon lành sau câu hát.
Đình làng quê tôi thời chiến tranh bị bom đạn tàn phá chỉ còn lại trơ vơ cái nền đầy rêu. Phải gần 30 năm sau ngày hòa bình, người dân trong làng mới gom góp xây dựng lại ngôi đình làng mới, nhưng mà phải dời đến một vị trí đất mới, bởi khu vực đình cũ bị lũ lụt xói lở cận kề bên.
Đình làng mới bây giờ xây dựng khá là đơn giản, mái lợp tôn, thô tháp mấy cây trụ bêtông cùng với những vị kèo sắt.
Bao đêm hát bội ở sân đình, nhưng trời đất ạ! Tôi bắt đầu biết… rưng rưng! (Hình: rfa.org)
Đình làng ngày xưa là một công trình kiến trúc đẹp vào hàng bậc nhất trong làng. Mới bước vào mặt tiền đã thấy hình rồng, hình phượng được cẩn bằng sứ ở hai bên vách tường tả – hữu, chính giữa là ba gian cửa gỗ sơn son. Trên mái đình, gắn trên đỉnh nóc là hình “lưỡng long tranh nguyệt,” bốn góc mái cong đầu đao gắn hình chim phượng.
Tôi chẳng thể nào nhớ hết những đường nét chạm trổ từ viên đá, tán kê dưới mỗi cây cột đến các bệ thờ. Có lẽ ấn tượng nhất mà ai cũng không quên, đấy là những hàng cột gỗ lim từng gian to đến cả hai vòng tay ôm không xuể. Và rồi những vị trính, vị kèo, được chạm trổ kì công, mỗi vị kèo trính như vậy thợ giỏi phải chạm mất cả hàng tháng ngày công.
Bây giờ thì sự hiện đại can dự vào tất cả, đến nỗi lễ Kỳ Yên được tổ chức sau Tết hằng năm cũng đã thưa vắng lắm rồi. Hay là trong tâm thức của làng từng bao sông cạn đá mòn, đã dâu bể như dòng sông đục ngầu chảy xói lở sát sau vườn đình như muốn cuốn trôi tất cả vào quên lãng.
Đi loanh quanh trong sân đình cũ, nhìn rêu dày lên mấy lớp, có gì dưới mấy tầng rêu phủ ấy mà bịn rịn, mà bồi hồi bước chân. Chợt nhớ, một vị giáo sư già mà tôi quen biết, ông là một bậc thầy cả đời chuyên nghiên cứu về hát bội. Có lần tôi may mắn theo ông điền dã ở một làng quê. Khi bước vào một ngôi đình xưa, giáo sư dạy tôi một kinh nghiệm: “Hãy nhắm mắt lại, tịnh tâm và nhìn thật xa, với cách nhìn như thế anh sẽ nghe, sẽ thấy tất cả ngày xưa hiện về.”
Bây giờ thì ông đã thuộc về lớp người muôn năm cũ. Nhớ lời ông, tôi cũng nhắm mắt mà nhìn, tịnh tâm mà nhìn. Từ mấy tầng rêu xanh kia, từ cái bóng đa rợp mát kia, và cả từ những ngọn gió lao xao lướt qua sân đình nữa, tôi nghe hết và tôi thấy hết! Dưới màu trăng nguyên tiêu vằng vặc, chập chùng với vô vàn ánh sáng lung linh đêm hát bội trên sân đình làng, từ đấy bước ra những con người của cổ tích: Mạnh Lệ Quân, Lưu Khánh, Kim Loan, Địch Thanh, Địch mẫu…
Và, cái nhân vật huyền ảo nhất, những thanh âm huyền nhiệm nhất, lẽ đương nhiên lung linh mãi trong trí nhớ của tôi, đấy là tình yêu hay thứ gì tôi không rõ, nhưng chắc một điều – công chúa Trại Ba, người đã gieo rắc mộng mị đầu tiên lên hoa niên tôi từ bấy… đến giờ!